Tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiểu,
Thoại bất đầu cơ bán cú đa.
Dao tri hồ thượng nhất tôn tửu,
Năng ức thiên nhai vạn lý nhân.

Tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiểu,
Thoại bất đầu cơ bán cú đa.
Dao tri hồ thượng nhất tôn tửu,
Năng ức thiên nhai vạn lý nhân.
Và điều quan trọng là trong sự hổi hả, quay cuồng của cuộc đời, ta vẫn biết rằng ta đang “Vội” và ta cũng có thể cảm nhận được sự bình yên, hạnh phúc đến từ những điều giản dị có mặt quanh ta như một bông hồng đang nở ngoài hiên, như ánh trăng in trong đáy nước. Và rồi không sợ mình “Vội” chỉ sợ rằng mình “Vội” mà mình không biết mình đang “Vội” mà thôi./.
Thường ngày, thân ta tuy ở đây, nhưng tâm ta lại chạy lăng xăng, khi tìm về quá khứ, lúc mộng tưởng tương lai… Và Mỗi khi tiếng chuông đồng hồ vang lên, như nhắc ta đưa tâm trở về với thân, để rồi cả thân và tâm ta thực sự có mặt bây giờ và ở đây trong giây phút hiện tại.
Hoa đã nở từ những gì vất bỏ
Nên Như Lai từ mỗi một hàm linh
Thế sao em không theo hạnh “Bất khinh”
Cung kính Lễ từng Phàm Phu tục tử./.
Bài thơ nói lên tâm trạng của một đại trí thức bị quản thúc tại gia, dù chấp nhận và an vui với hiện tại nhưng lòng vẫn canh cánh việc nước việc dân.
Trước Tết Mai là hoa
Sau Tết Mai là củi
Trước bao nhiêu nâng niu
Sau bấy nhiêu hất hủi
Nâng niu Mai chẳng mừng
Hất hủi Mai không tủi
Thân như tường vách đã lung lay
Đau đáu người đời luống xót thay
Nếu đạt tâm không không tướng sắc
Sắc không ẩn hiện mặc xoay vần.
Thân như bóng chớp có rồi không
Cây cỏ xuân tơi, thu nhuốm hồng
Mặc cuộc thịnh suy, đừng sợ hãi
Thịnh suy như cỏ hạt sương đông./
Thuở bé chưa từng rõ sắc không,
Xuân về hoa nở rộn trong lòng.
Chúa Xuân nay bị ta khám phá,
Thiền bản, bồ đoàn, ngắm cánh hồng.
Ðưa con ra đến cửa buồng thôi,
Mẹ phải xa con, khổ mấy mươi!
Con ạ! đêm nay mình mẹ khóc
Ðêm đêm mình mẹ lại đưa thoi.
Một lần nữa đọc “Những bóng người trên sân ga”, mình lại có thêm một lần để nhìn lại và rồi để hiểu, để thương cho những thân phận người, mà ở đó có hình ảnh của bố, của mẹ, của chị và … của chính mình./.
…Ðã biết cửa quyền nhiều hiểm hóc,
Cho hay đường lợi cực quanh co.
Tuồng ni cốc được bề hơn thiệt,
Chưa dễ bằng ai đắn với đo./.
Bài thơ “Dưỡng sinh thi” của Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện triết lý sống thanh thản, giản dị, hòa hợp với tự nhiên và sự an yên trong tâm hồn.
“Nhàn” là bài thơ ngắn gọn, nhưng lại chứa đựng những triết lý sâu sắc về một cuộc sống thanh tịnh, không bị ràng buộc bởi những áp lực hay sự cạnh tranh. Hưng Hòa đã khéo léo vẽ lên hình ảnh một cuộc sống giản dị nhưng đầy ý nghĩa, nhắc nhở con người tìm kiếm và nuôi dưỡng sự bình an từ bên trong.
Minh Dương không sử dụng quá nhiều hình ảnh trừu tượng hay phức tạp, mà tập trung vào những chi tiết cụ thể và dễ nhận ra, tạo nên một không khí rất gần gũi và chân thật. Từ đó, “Không đề 2” không chỉ là một bài thơ miêu tả những khoảnh khắc sống động mà còn là một bài thơ về sự tìm thấy vẻ đẹp trong những điều nhỏ nhặt của cuộc sống hàng ngày.
Cây sữa dưới thềm sai trĩu quả
Hạt ớt vợ gieo đã đỏ au
Cay đắng ngọt bùi đều nếm đủ
Mảnh sân trước nhà bỗng ngát hương./.
“Có gì đẹp trên đời hơn thế
Người yêu người sống để yêu nhau
Đảng cho ta trái tim giàu
Thẳng lưng mà bước, ngẩng đầu mà bay!”
“Có khi nhẫn để yêu thương
Có khi nhẫn để liệu đường lo toan
Có khi nhẫn để vẹn toàn
Có khi nhẫn để khỏi tàn hại nhau!”
“Phong lai sơ trúc,
phong khứ nhi trúc bất lưu thanh.
Nhạn quá hàn đàm,
nhạn khứ nhi đàm vô lưu ảnh.
Thị cố quân tử sự lai nhi tâm thỉ hiện
Sự khứ nhi tâm tùy không.”
Bạn bè là nghĩa tương tri
Có duyên gặp mặt mấy khi trong đời
Trên môi hé nở nụ cười
Sống vui, mạnh khỏe làm người nghĩa nhân.
Hình ảnh mà Thái Tông dùng để diễn tả sự chấm dứt của một cuộc đời lãng phí là một hình ảnh kỳ tuyệt có giá trị đánh thức rất thần diệu. Đó là hình ảnh trăng khuya lặn trên một dòng sông yên tĩnh sau một trận bão tố khủng khiếp, trong đó tác giả thấy một ngư ông say khướt để thuyền tự do vượt sóng qua sông: