Tục huyền cảm tác
(Đáp tạ các bạn văn chương, ngoài nước mây trong tiệc tiếu 醮)
Lò hương cũ khói trầm cao thấp,
Cung đàn xưa tiếng trúc gần xa;
Đông nam đôi vẻ mặn mà,
Văn chương sực nức một nhà huệ lan,
Gió xuân phẩy vui làn tóc bạc,
Mảnh xuân đường dìu dặt sắt cầm;
Than ôi! hiếu trọng tình thâm,
Bên tình bên hiếu khôn cầm cả đôi.
Tục huyền dễ không người đứt ruột,
Nối dây tơ nối được lòng ru?
Những từ sen ngó đào tơ,
Thề nguyền trăng gió, hẹn hò non sông.
Cành mưa móc ngô đồng tươi đẹp,
Phượng hoàng mong trọn kiếp song thê;
Sớm mây chiều gió đi về,
Xiết bao hoa tựa trắng kề thong dong.
Trời đất nỡ phụ lòng con trẻ,
Khiến uyên ương chia rẽ lứa đôi;
Còn đâu vàng đá nặng lời!
Còn đâu non nước thề bồi nữa đây!
Chim Linh Phượng một bay chẳng lại,
Nhà Độc Thê mực vẩy lệ sầu;
Gió mưa hai độ xuân thu,
Khắp trông non nước toàn màu thê lương.
Tơ tóc đã bẽ bàng duyên nợ,
Hỏi lòng xuân còn có gì đâu!
Ngàu xanh lỗi hẹn bạc đầu!
Đành ôm một khối hận sầu nghìn thu.
Não thay cảnh cành dâu bóng xế,
Miếng trân cam ai kẻ hôm mai;
Con thơ mái tóc chưa cài,
Chỉ kim ai kẻ thay lời từ thân.
Đành đổi áo, thay khăn đã phụ,
Phụ người xưa, riêng phụ lòng mình!
Chung tình thôi chẳng chung tình,
Rủi may thôi cũng đã đành thế thôi!
– “May sau hẳn đền bồi rủi trước,
Tình mới âu nối được duyên xưa;
Giao loan chắp mối tơ thừa,
Lửa hương lại ấm, tóc tơ lại bền.
Trong phòng đỗng khúc uyên ương dạo,
Ngoài vườn xuân bóng liễu đào tươi;
Vui xuân én hót oanh cười,
Hồ Đông sao khiến nhạt mùi xuân quang.
Duyên trước đã trăng dang hoa dở,
Tình nay đương hoa nở trăng tròn;
Trăm năm giấc mộng nhân hoàn,
Chợ trần thôi hãy bán buồn mua vui.”
Rượu tiếu 醮 đã ngát mùi lan huệ,
Tiệc hoa thêm đậm vẻ văn chương;
Cùng trong thanh khí một phường,
Cùng trong nước biếc mây vàng cảm nhau.
Cảm nhau đến trong màu đạm bạc,
Cảm nhau vì trên đất đoạn tràng;
Lời ai ném ngọc gieo vàng,
Tình ai núi trọng sông trường lắm sao!
Ân tri kỷ xiết bao tả nói,
Tấm lòng riêng muôn đội ân lòng;
Đêm xuân một hội tao phùng,
Bạn bè nghĩa nặng, vợ chồng tình sâu.
*
Giữa Hiếu và Tình – Khối Hận Nghìn Thu
Trong nhân gian, chữ “tình” và chữ “hiếu” vốn dĩ là hai bờ sông song song, mà con thuyền đời người khó lòng chèo lái trọn vẹn cả đôi. Đông Hồ, qua bài thơ Tục huyền cảm tác, đã khắc họa nỗi lòng của một người đàn ông đứng trước cuộc hôn nhân thứ hai sau khi người vợ đầu qua đời. Một bên là tình xưa nghĩa cũ, một bên là trách nhiệm của kẻ ở lại. Sự giằng xé giữa quá khứ và hiện tại, giữa lòng chung thủy và sự an bài của số phận, đã tạo nên những vần thơ chất chứa nỗi niềm sâu lắng.
Bóng xưa còn đó, người mới đã về
Ngay từ những câu thơ đầu, Đông Hồ đã mở ra một không gian ngập tràn hoài niệm:
“Lò hương cũ khói trầm cao thấp,
Cung đàn xưa tiếng trúc gần xa.”
Lửa hương còn đó, tiếng đàn chưa dứt, nhưng người xưa đã hóa thành dĩ vãng. Tình cảm quá khứ không dễ nguôi ngoai, dù thời gian có trôi xa. Và rồi, cuộc đời lại an bài một duyên mới:
“Tục huyền dễ không người đứt ruột,
Nối dây tơ nối được lòng ru?”
Câu hỏi ấy không chỉ dành cho người đời, mà còn là một lời tự vấn. Một cuộc hôn nhân mới liệu có thể vá lành những vết thương cũ? Liệu sự kết nối thể xác có đồng điệu được với tâm hồn? Hay tất cả chỉ là một nỗ lực hàn gắn vô vọng?
Những khắc khoải trước phận đời nghiệt ngã
Đông Hồ không chỉ đau đớn vì sự chia lìa, mà còn vì cảm giác bị đẩy vào tình thế chẳng thể vẹn toàn:
“Bên tình bên hiếu khôn cầm cả đôi.”
Làm tròn chữ hiếu, thì đành phụ chữ tình. Đáp lại lòng người thân, thì vô tình quay lưng với nỗi nhớ thương còn khắc khoải. Đó là bi kịch không chỉ của riêng Đông Hồ, mà còn của biết bao người trong xã hội phong kiến – nơi hiếu đạo đặt trên tất cả, mà con người chỉ có thể thuận theo, dù lòng mình có tan nát.
Duyên mới có thể khỏa lấp nỗi đau?
Tình xưa đã lỡ, nhưng liệu tình nay có thể thay thế?
“Duyên trước đã trăng dang hoa dở,
Tình nay đương hoa nở trăng tròn.”
Câu thơ như một lời an ủi, một sự chấp nhận để đi tiếp. Nhưng liệu niềm vui mới có thể lấp đầy khoảng trống? Hay chỉ là lớp vỏ bọc che đi một trái tim đã mang vết thương sâu?
Đông Hồ cố gắng dỗ dành mình bằng ý niệm “bán buồn mua vui”, nhưng nỗi đau cũ vẫn thấp thoáng trong từng con chữ. Người có thể bước sang một cuộc đời mới, nhưng tâm hồn vẫn mãi mắc kẹt trong bóng hình xưa.
Thông điệp của bài thơ
Tục huyền cảm tác không chỉ là tiếng lòng của riêng tác giả, mà còn là nỗi lòng chung của những người từng đi qua mất mát. Đông Hồ không than trách số phận, không oán thán duyên đời, chỉ lặng lẽ giãi bày. Trong những vần thơ, ta thấy sự giằng xé giữa lý trí và con tim, giữa trách nhiệm và khát khao tình cảm.
Bài thơ như một tấm gương phản chiếu kiếp người: ai rồi cũng phải chấp nhận quy luật đổi thay, ai rồi cũng phải bước tiếp, nhưng liệu có thực sự quên đi những gì đã khắc sâu trong tim? Hay tất cả chỉ là sự gắng gượng để rồi mãi mãi ôm một khối hận nghìn thu?
*
Đông Hồ – Nhà thơ và người bảo tồn văn hóa dân tộc
Đông Hồ (1906-1969), tên thật Lâm Tấn Phác, là một nhà thơ, nhà giáo, nhà nghiên cứu văn học có tầm ảnh hưởng lớn đối với nền văn học Việt Nam. Sinh ra tại Hà Tiên, vùng đất giàu truyền thống văn hóa, ông sớm bộc lộ niềm say mê đối với quốc văn và quốc ngữ, từ đó dành trọn đời để nghiên cứu, giảng dạy và sáng tác bằng tiếng Việt.
Là thành viên của nhóm “Hà Tiên tứ tuyệt”, Đông Hồ không chỉ sáng tác thơ mà còn viết văn, ký, khảo cứu, góp phần quan trọng trong việc gìn giữ và phát huy văn hóa dân tộc. Ông từng sáng lập Trí Đức học xá, xuất bản tuần báo Sống, điều hành nhà xuất bản Bốn Phương và tạp chí Nhân Loại, với mục tiêu cổ vũ tinh thần dân tộc, đề cao giá trị tiếng Việt.
Thơ và văn của ông nhẹ nhàng, sâu sắc, giàu tình cảm, đi từ thể loại truyền thống đến hiện đại. Những tác phẩm tiêu biểu có thể kể đến Thơ Đông Hồ, Linh Phượng, Cô gái xuân, Hà Tiên thập cảnh… Bên cạnh đó, ông cũng được biết đến là người tiên phong trong việc phát triển thư pháp chữ Quốc ngữ.
Cuộc đời và sự nghiệp của Đông Hồ là minh chứng cho một tấm lòng tha thiết với văn hóa Việt Nam. Ông mất năm 1969 ngay trên bục giảng khi đang giảng bài thơ Trưng Nữ Vương, để lại một di sản văn học đáng trân trọng.
Viên Ngọc Quý