Cảm nhận bài thơ: Anh bộ đội về làng – Xuân Diệu

Anh bộ đội về làng

 

Nhớ làng phát động không nguôi,
Hôm nay được trở về nơi ba cùng.
Con đường, bờ ruộng, khúc sông,
Bóng tre, màu rạ; như trong ruột rà.
Dù không đất tổ, quê cha,
Nơi say công tác, đó là quê hương.
Mỗi lời thăm hỏi, vấn vương;
Mỗi em níu áo, lòng thương lạ lùng!
Bước về nhà rễ cố nông,
Con nay cán bộ, mẹ trong chấp hành.
Mẹ mừng, nước mắt chảy quanh,
Nấu khoai, chặt mía, như giành bấy nay:
– “Anh đi, để lại điếu cày,
Mẹ trông thấy điếu, ngày ngày nhớ anh.
Bữa ăn bát nhút, nồi canh,
Cháu thơ nhắc nhở nhìn quanh ghế ngồi.
Đội về, thôn xã sáng tươi,
Có anh hai tháng, cuộc đời mẹ hay”.
Nhìn nhà, nhìn cửa đổi thay,
Cháu thêm chiếc áo, chuồng nay có bò.
Băng vườn, tạt lối quanh co,
Thăm lân, thăm xóm, chuyện trò mừng sao!
Nghe tin sản xuất nâng cao,
Mở năm lớp học, giếng đào được ba.
Hỏi thăm sức khoẻ gần xa,
Trẻ em hết ghẻ, cụ già lành ho.
Hỏi thăm khoai sắn đói, no?
Vải nay đắt, rẻ? mật giờ thấp, cao?
Hỏi mình đoàn kết ra sao?
Hỏi mưu địa chủ đứa nào còn ngoe?
– Bà con hỏi lại, muốn nghe
Những tin thắng trận, câu vè, bài thơ.
Trầu ăn thắm miệng, thuốc đưa,
Mừng trông các cụ bây giờ khoẻ vui;
– Rằng: “Đi công tác nhiều nơi,
Chúng con thường vẫn nhớ khoai xã nhà;
Không đâu bằng ở quê ta
Khoai ăn thoả thích, nhiều mà dẻo, ngon.
Nhớ khoai là nhớ bà con
Gian lao vẫn một lòng son ngọt bùi”.

Những người đấu cật, chung vai,
Gặp nhau sao xiết rộng, dài tình thương!
Tình yêu đất nước quê hương
Là tình kính mến, yêu thương đồng bào.


5-1954

*

Tình Người Trong Ngày Trở Về

Bài thơ Anh bộ đội về làng của Xuân Diệu mang đến một bức tranh đầy xúc động về ngày trở lại quê hương của một người chiến sĩ. Không chỉ đơn thuần là một cuộc trở về sau những ngày dài công tác, mà đó còn là sự hội ngộ giữa người lính và nhân dân – nơi anh đã gắn bó, đã cùng sẻ chia những gian lao, vất vả.

Với người bộ đội, làng quê không chỉ là nơi anh từng sống, mà còn là nơi anh đã “say công tác”, đã cùng nhân dân trải qua những tháng ngày đấu tranh đầy nhiệt huyết. Khi bước chân anh chạm lại những con đường làng quen thuộc, mỗi bóng tre, mỗi mái rạ, mỗi khúc sông đều gợi lên những cảm xúc thân thương, gần gũi như chính ruột thịt của mình:

“Dù không đất tổ, quê cha,
Nơi say công tác, đó là quê hương.”

Tình cảm chân thành giữa anh bộ đội và bà con làng quê hiện lên trong từng câu thơ mộc mạc mà ấm áp. Những cái níu áo trẻ thơ, những lời thăm hỏi đầy lưu luyến, giọng nói của mẹ già nghẹn ngào trong niềm vui đoàn tụ – tất cả vẽ nên một khung cảnh chan chứa yêu thương. Người mẹ từng ngày mong nhớ, chỉ nhìn thấy điếu cày anh để lại mà nhớ thương khôn nguôi. Niềm vui của mẹ không chỉ là được gặp lại con, mà còn là thấy cuộc sống đổi thay, thấy làng quê ngày càng tươi sáng hơn:

“Đội về, thôn xã sáng tươi,
Có anh hai tháng, cuộc đời mẹ hay.”

Anh bộ đội trở về không chỉ để thăm lại chốn cũ, mà còn để chứng kiến sự đổi thay của làng quê. Những lớp học mới mở, giếng nước mới đào, sản xuất ngày càng phát triển, trẻ em khỏe mạnh hơn, người già không còn ốm đau nhiều – đó chính là thành quả của cách mạng, là niềm vui lớn lao của những người lính như anh.

Bài thơ không chỉ thể hiện tình cảm giữa người lính và nhân dân, mà còn ca ngợi tinh thần đoàn kết, lòng yêu nước của những con người đã cùng nhau đấu tranh vì một cuộc sống tốt đẹp hơn. Nhìn thấy sự đổi thay ấy, anh bộ đội càng thêm tự hào, càng thêm yêu mến và trân trọng tình cảm của bà con.

“Những người đấu cật, chung vai,
Gặp nhau sao xiết rộng, dài tình thương!”

Bài thơ Anh bộ đội về làng không chỉ là một câu chuyện về sự trở về, mà còn là một bản nhạc ấm áp về tình người, về sự gắn kết giữa những con người cùng chung lý tưởng. Nó cho ta thấy rằng quê hương không chỉ là nơi ta sinh ra, mà còn là nơi ta từng gắn bó, từng cống hiến và yêu thương bằng cả trái tim. Tình yêu đất nước, quê hương chính là tình yêu dành cho những con người quanh ta – những người đã cùng nhau đi qua gian khó để hướng tới một tương lai tươi sáng.

*

Xuân Diệu – “Ông hoàng thơ tình” của văn học Việt Nam

Xuân Diệu (1916–1985), tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu, là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của nền văn học hiện đại Việt Nam. Với phong cách sáng tác độc đáo, giàu cảm xúc và khát vọng yêu đời mãnh liệt, ông đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bao thế hệ độc giả.

Sinh ra tại Hà Tĩnh nhưng lớn lên ở Quy Nhơn, Bình Định, Xuân Diệu sớm bộc lộ niềm đam mê văn chương. Ông là gương mặt tiêu biểu của phong trào Thơ Mới, mang đến một luồng sinh khí mới cho thi ca Việt Nam. Những tác phẩm như Thơ thơ (1938) hay Gửi hương cho gió (1945) thể hiện rõ nét giọng điệu sôi nổi, táo bạo, chan chứa tình yêu và khát khao tận hưởng vẻ đẹp cuộc sống.

Sau năm 1945, Xuân Diệu chuyển hướng sáng tác, hòa mình vào dòng chảy cách mạng, ca ngợi quê hương, đất nước và con người lao động. Dù ở giai đoạn nào, thơ ông vẫn giữ nguyên vẹn sự say mê và rung động sâu sắc. Những tác phẩm như Riêng chung (1960) hay Hai đợt sóng (1967) tiếp tục khẳng định vị trí của ông trên thi đàn.

Không chỉ là nhà thơ, Xuân Diệu còn là nhà văn, nhà phê bình có ảnh hưởng lớn. Năm 1996, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật, ghi nhận những đóng góp to lớn của mình.

Xuân Diệu vẫn mãi là biểu tượng của thơ tình Việt Nam, là tiếng nói tha thiết của một tâm hồn luôn khát khao yêu và sống trọn vẹn từng khoảnh khắc:

“Hãy tận hưởng ngày giờ đang thở,
Và yêu đời, hãy sống mạnh hơn tôi.”

Viên Ngọc Quý

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *