Cảm nhận bài thơ: Bà má Năm Căn

Bà má Năm Căn

 

Tặng Đoàn Giỏi, tác giả bài “Cây đước Cà Mau”

Bà má Năm Căn bỏm bẻm nhai trầu,
Mặc áo bà ba, đầu búi tóc –
Sao con thấy má là hình đất nước,
Má ơi, ở tận chót Cà Mau.

Là một làng xanh biếc trên sông,
Nằm giữa vùng quanh năm nước ngập,
Vẹt với đước ken dày trùng điệp,
– Những thợ rừng, thợ biển đổ bao công…

Khi má vừa bước đến Năm Căn,
Lơ thơ mới mấy chòi đốn củi;
Cá đặc nước, nhưng rừng còn tối;
Đất hẹp trồng rau lúa khó khăn.

Thương bác trai năm ấy phá rừng,
Cơm chiều đợi, mà chạy tìm: thảm xót!
Bên vũng máu, những lốt in chân cọp,
Cây đước còn dao phập ngang lưng.

Má Năm Căn mấy chục năm tròn
Nuôi hai con, làm nghề cá, mắm.
Chợ Năm Căn cửa nhà xây thắm,
Tôm khô tép lụi cá biển lồng thơm…

Chợ Năm Căn đốt, dựng mấy lần
Năm Căn vẫn cây rừng, cá bể…
Bà má Năm Căn vào “Hội mẹ”,
Nuôi bộ đội từng bữa uống, bữa ăn.

Cảm kích thay bà má Năm Căn
Có một con trai làm trái, rễ,
Cộng hoà vệ binh ngày khởi nghĩa,
Đánh trận Gia Rai vì nước bỏ mình.

Ngập dấu dao xưa, cây đước xanh,
Lá ánh mặt trời che bóng mát
Trên hai nấm mồ cha với con,
Êm đềm gió biển ru phơ phất.

Bà má Năm Căn vẫn đó mà!
Bền bỉ giữ sông và bám đất,
Ham ưa trồng trọt, thích chăn nuôi,
Lòng thuỷ chung như đầy bát nước.

Đoàn thể phê bình má chủ quan,
Gọi ông chủ tịch xã bằng thằng;
Quả tình má trọng như con đẻ,
Không phân tình mẹ với tình dân.

Ôi! má Năm Căn tóc ngả màu
Vẫn còn phải giữ chót Cà Mau,
Ruột liền của má ôm Nam – Bắc,
Lại những đêm ngày cực xót đau.

         *

Bà má Năm Căn, bà má Năm Căn,
Những bà má Năm Căn làm ra đất nước,
Xắn đôi tay áo, buộc khăn rằn,
Đánh chết bọn ăn cướp, ăn cướp!


15-6-1961

*

Bà Má Năm Căn – Hình Tượng Người Mẹ Của Đất Nước

Trong dòng chảy của văn học kháng chiến, hình tượng người mẹ luôn là biểu tượng thiêng liêng của lòng yêu nước, của sự hy sinh thầm lặng nhưng vĩ đại. Bài thơ Bà má Năm Căn của Xuân Diệu là một khúc ca ngợi tràn đầy cảm xúc, khắc họa chân thực hình ảnh người mẹ miền Nam kiên cường, giàu lòng nhân ái, gắn bó máu thịt với quê hương. Qua từng vần thơ, ta cảm nhận được không chỉ lòng tri ân sâu sắc mà còn cả niềm tự hào vô bờ dành cho những người mẹ như má Năm Căn – những người đã góp phần làm nên lịch sử của đất nước.

Má – hình ảnh của quê hương, của đất nước

Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh gần gũi và thân thương của má Năm Căn:

Bà má Năm Căn bỏm bẻm nhai trầu,
Mặc áo bà ba, đầu búi tóc –
Sao con thấy má là hình đất nước,
Má ơi, ở tận chót Cà Mau.

Chỉ vài câu thơ ngắn gọn, Xuân Diệu đã vẽ lên một hình ảnh mộc mạc mà sâu sắc. Má hiện lên với nét bình dị của một người phụ nữ Nam Bộ, với áo bà ba, tóc búi gọn gàng, nhai trầu thảnh thơi. Nhưng hơn thế nữa, má không chỉ là một con người cụ thể, mà còn là biểu tượng của đất nước, của quê hương thân thương. Từ tận cùng Tổ quốc – chót Cà Mau – má vẫn vững vàng, bền bỉ như chính non sông này.

Không chỉ có má, bài thơ còn tái hiện khung cảnh của vùng đất Năm Căn hoang sơ mà đầy tiềm năng:

Là một làng xanh biếc trên sông,
Nằm giữa vùng quanh năm nước ngập,
Vẹt với đước ken dày trùng điệp,

Những thợ rừng, thợ biển đổ bao công…

Vùng đất Năm Căn không chỉ có thiên nhiên trù phú mà còn là nơi con người ngày đêm lao động để khai phá. Má Năm Căn không đứng ngoài cuộc, má chính là người gắn bó và góp phần tạo nên sự đổi thay của vùng đất này.

Những đau thương và nghị lực của má

Xuân Diệu không tô hồng cuộc sống của má, mà ông kể lại một cách chân thực những mất mát, đau thương mà má phải chịu đựng. Khi mới đến Năm Căn, đất hoang sơ, hiểm nguy rình rập:

Thương bác trai năm ấy phá rừng,
Cơm chiều đợi, mà chạy tìm: thảm xót!
Bên vũng máu, những lốt in chân cọp,
Cây đước còn dao phập ngang lưng.

Hình ảnh vết máu loang bên những dấu chân cọp, con dao còn cắm ngang thân cây đước – tất cả như một thước phim bi thương về cuộc sống gian khổ của người dân nơi đây. Nhưng má không gục ngã, má tiếp tục nuôi con, tiếp tục xây dựng cuộc sống:

Má Năm Căn mấy chục năm tròn
Nuôi hai con, làm nghề cá, mắm.

Không chỉ đối mặt với thiên nhiên khắc nghiệt, má còn đối diện với chiến tranh, với mất mát to lớn khi con trai hy sinh vì đất nước:

Có một con trai làm trái, rễ,
Cộng hoà vệ binh ngày khởi nghĩa,
Đánh trận Gia Rai vì nước bỏ mình.

Nhưng ngay cả khi mất đi người thân yêu nhất, má vẫn không lùi bước. Má tiếp tục gắn bó với đất nước, với cách mạng, như một chứng nhân kiên cường của lịch sử.

Tinh thần bất khuất của má

Má không chỉ là một người mẹ lo toan cho gia đình, mà còn là một người mẹ của cách mạng, của quê hương:

Bà má Năm Căn vào “Hội mẹ”,
Nuôi bộ đội từng bữa uống, bữa ăn.

Tình yêu nước của má không chỉ dừng lại ở nỗi đau riêng, mà còn hòa vào tình yêu chung của dân tộc. Má không ngại khó khăn, không quản nhọc nhằn, luôn sẵn sàng góp công sức vào sự nghiệp lớn lao của đất nước.

Và rồi, thời gian trôi qua, má vẫn kiên trung, vẫn giữ trọn lòng thủy chung với quê hương, với con người:

Bà má Năm Căn vẫn đó mà!
Bền bỉ giữ sông và bám đất,
Ham ưa trồng trọt, thích chăn nuôi,
Lòng thuỷ chung như đầy bát nước.

Bài thơ kết thúc bằng những câu thơ mạnh mẽ, khẳng định vai trò quan trọng của những người mẹ như má Năm Căn trong lịch sử dân tộc:

Bà má Năm Căn, bà má Năm Căn,
Những bà má Năm Căn làm ra đất nước,
Xắn đôi tay áo, buộc khăn rằn,
Đánh chết bọn ăn cướp, ăn cướp!

Từ hình ảnh một người mẹ bình dị, má đã trở thành biểu tượng cho những người phụ nữ kiên cường của đất nước. Chính những người mẹ ấy đã làm nên lịch sử, đã giữ gìn từng tấc đất quê hương bằng lòng yêu nước nồng nàn và ý chí bất khuất.

Lời kết – Một biểu tượng bất diệt

Bài thơ Bà má Năm Căn không chỉ là một bài ca ngợi một con người, mà còn là một lời tri ân dành cho biết bao bà mẹ Việt Nam đã hy sinh thầm lặng vì đất nước. Xuân Diệu đã khéo léo đưa hình ảnh má từ một con người cụ thể trở thành một biểu tượng lớn lao của lòng yêu nước, của sự kiên cường và lòng thủy chung.

Bài thơ cũng là một lời nhắc nhở về giá trị của những hy sinh ấy. Đọc bài thơ, ta không chỉ cảm nhận được sự xúc động mà còn thêm trân trọng những con người đã làm nên đất nước, đã góp phần tạo nên một Việt Nam kiên cường, bất khuất. Và trong mỗi người con đất Việt, dù ở đâu, dù trong thời đại nào, hình ảnh má Năm Căn vẫn luôn sống mãi, như một ngọn đuốc sáng ngời của tình yêu nước và lòng dũng cảm.

*

Xuân Diệu – “Ông hoàng thơ tình” của văn học Việt Nam

Xuân Diệu (1916–1985), tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu, là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của nền văn học hiện đại Việt Nam. Với phong cách sáng tác độc đáo, giàu cảm xúc và khát vọng yêu đời mãnh liệt, ông đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bao thế hệ độc giả.

Sinh ra tại Hà Tĩnh nhưng lớn lên ở Quy Nhơn, Bình Định, Xuân Diệu sớm bộc lộ niềm đam mê văn chương. Ông là gương mặt tiêu biểu của phong trào Thơ Mới, mang đến một luồng sinh khí mới cho thi ca Việt Nam. Những tác phẩm như Thơ thơ (1938) hay Gửi hương cho gió (1945) thể hiện rõ nét giọng điệu sôi nổi, táo bạo, chan chứa tình yêu và khát khao tận hưởng vẻ đẹp cuộc sống.

Sau năm 1945, Xuân Diệu chuyển hướng sáng tác, hòa mình vào dòng chảy cách mạng, ca ngợi quê hương, đất nước và con người lao động. Dù ở giai đoạn nào, thơ ông vẫn giữ nguyên vẹn sự say mê và rung động sâu sắc. Những tác phẩm như Riêng chung (1960) hay Hai đợt sóng (1967) tiếp tục khẳng định vị trí của ông trên thi đàn.

Không chỉ là nhà thơ, Xuân Diệu còn là nhà văn, nhà phê bình có ảnh hưởng lớn. Năm 1996, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật, ghi nhận những đóng góp to lớn của mình.

Xuân Diệu vẫn mãi là biểu tượng của thơ tình Việt Nam, là tiếng nói tha thiết của một tâm hồn luôn khát khao yêu và sống trọn vẹn từng khoảnh khắc:

“Hãy tận hưởng ngày giờ đang thở,
Và yêu đời, hãy sống mạnh hơn tôi.”

Viên Ngọc Quý

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *