Cảm nhận bài thơ: Bà mẹ miền Nam – Xuân Diệu

Bà mẹ miền Nam

 

Mẹ Bình Định xa xăm.
Con Thái Nguyên công tác.
Mẹ nhớ trong khu Năm;
Con thương ngoài Việt Bắc.

Hôm cuối cùng nhìn mẹ,
Địch đang gây Hải Phòng.
Con đáp tầu ra Bắc;
Kháng chiến tám mùa đông.

Đánh giặc tám năm ròng,
Nhân dân mình đau xót,
Lửa cháy đất tàn không,
Máu rơi nghìn triệu giọt.

Năm ngoái nghe tin mẹ
Địch tràn lên quê nhà,
Thân già đi tránh nó
Quần áo bỏ rơi xa.

Mẹ trở về tay không,
Được bà con giúp đỡ.
Con đọc thư hởi lòng:
Năm nay da mẹ đỏ.

Mẹ làm quà, bán bánh.
Mẹ lao động, tăng gia;
Xưa đời buồn, mẹ khóc;
Nay mẹ vui Cộng hòa.

Mẹ bẩy mươi tuổi rồi,
Sức không nhiều đâu nữa.
Mẹ cố sống thêm ngày,
Mong thấy con trước cửa.

Mong nước nhà độc lập,
Con của mẹ về thăm,
Bõ đêm nằm mẹ nhớ
Sáu, bảy, rồi tám năm.

Con thầm lo mẹ già,
Sợ khó mà gặp mẹ;
Quân giặc cướp nước ta,
Xót xa già với trẻ.

Cảm thương muôn bác mẹ
Xa cách vạn người con,
Con nghĩ tình đất nước,
Chăm lo công tác tròn.

Nay dành lại Hòa bình
Do sức ta kháng chiến,
Con thương mẹ một mình,
Con chưa về được đến.

Mẹ ở vùng tạm đóng
Trước đây miền tự do:
Không khỏi lòng mẹ tủi,
Nhưng mẹ à, chớ lo!

Vĩ tuyến nào vĩ tuyến,
Nước của mẹ con ta
Chân nào còn lẩn quất,
Cũng đến ngày gạt ra.

Sức ta nay vững mạnh,
– Có mạnh mới Hòa bình –
Dân ta càng phấn đấu
Giữ nguyên non nước mình.

Mẹ trong ấy yên tâm,
Con ngoài này gắng sức.
Ngừng chiến, việc bằng trăm,
Chạy thi lên đỉnh dốc.

Đến một ngày sung sướng
Con được phép về nhà,
Con chạy ào vô cửa,
Mẹ vui quá khóc òa.

Con quạt màn mẹ nghỉ,
Mẹ kho cá con ăn.
Ơn cụ Hồ lo nghĩ,
Nước non nay đã gần.


8-1954

*

Tấm lòng người mẹ miền Nam – Niềm tin vào ngày đoàn tụ

Giữa những năm tháng kháng chiến trường kỳ, khi đất nước chìm trong bom đạn, những người con ra đi chiến đấu mang theo trong tim hình bóng người mẹ quê nhà. Bà mẹ miền Nam của Xuân Diệu là một bài thơ cảm động, không chỉ khắc họa nỗi nhớ mong của người con xa quê mà còn tôn vinh hình ảnh người mẹ miền Nam kiên cường, giàu lòng yêu nước.

Xa cách nhưng không chia lìa

Những câu thơ đầu tiên đã mở ra một khung cảnh chia xa đầy day dứt:

“Mẹ Bình Định xa xăm.
Con Thái Nguyên công tác.
Mẹ nhớ trong khu Năm;
Con thương ngoài Việt Bắc.”

Người mẹ ở Bình Định, người con xa xôi tận miền Bắc. Hai nơi, hai cuộc sống, nhưng cùng chung một nỗi nhớ. Tình mẫu tử bị chiến tranh chia cắt, nhưng sợi dây gắn bó giữa mẹ và con vẫn mãi vững bền.

Không chỉ có một người mẹ và một người con, mà còn biết bao người mẹ miền Nam khác đang xa con, và bao người con xa mẹ. Chiến tranh đã lấy đi sự đoàn tụ, nhưng chưa bao giờ dập tắt tình yêu thương.

Người mẹ miền Nam – Biểu tượng của lòng kiên trung

Mẹ không chỉ là người phụ nữ tảo tần, lo lắng cho con, mà còn là hình ảnh tiêu biểu của những bà mẹ Việt Nam trong thời chiến:

“Mẹ làm quà, bán bánh.
Mẹ lao động, tăng gia;
Xưa đời buồn, mẹ khóc;
Nay mẹ vui Cộng hòa.”

Trước đây, mẹ từng khóc trong những ngày tháng đau thương, mất mát. Nhưng giờ đây, mẹ không còn là người phụ nữ yếu đuối chỉ biết khóc than, mà đã trở thành một con người kiên cường. Mẹ lao động, mẹ tăng gia sản xuất, mẹ tự tay gây dựng lại cuộc sống, mặc cho bao khó khăn vây quanh.

Hình ảnh người mẹ miền Nam ấy là biểu tượng của cả dân tộc – một dân tộc không cam chịu, không khuất phục, mà biết đứng dậy để tự quyết định số phận của mình.

Niềm tin vào ngày đoàn tụ

Cả mẹ và con đều mong chờ ngày gặp lại. Người mẹ mong được thấy con sau bao năm xa cách, còn người con lại lo sợ chiến tranh sẽ ngăn cách mãi mãi tình mẫu tử thiêng liêng:

“Mẹ bảy mươi tuổi rồi,
Sức không nhiều đâu nữa.
Mẹ cố sống thêm ngày,
Mong thấy con trước cửa.”

Những dòng thơ giản dị mà thấm thía. Mẹ đã già, mẹ không có nhiều thời gian để chờ đợi. Nhưng mẹ vẫn nuôi hy vọng, vẫn đếm từng ngày, từng đêm mong con trở về.

Còn người con, giữa trách nhiệm với đất nước và nỗi lo cho mẹ già, chỉ biết cố gắng hơn nữa để sớm mang về hòa bình.

“Mẹ trong ấy yên tâm,
Con ngoài này gắng sức.
Ngừng chiến, việc bằng trăm,
Chạy thi lên đỉnh dốc.”

Mỗi người một nơi, nhưng cùng chung một niềm tin: hòa bình sẽ đến, đất nước sẽ sum họp, mẹ con rồi sẽ gặp lại nhau.

Lời hẹn ước trong ngày độc lập

Và rồi, bài thơ khép lại bằng một hình ảnh đầy cảm xúc – ngày mà người con được trở về, chạy ào vào lòng mẹ, nước mắt hạnh phúc trào dâng:

“Đến một ngày sung sướng
Con được phép về nhà,
Con chạy ào vô cửa,
Mẹ vui quá khóc òa.”

Đó là giấc mơ của bao người con xa quê, giấc mơ của cả dân tộc trong những ngày tháng bị chia cắt.

Niềm vui ấy không chỉ là của riêng hai mẹ con, mà còn là niềm vui chung của cả đất nước, khi hòa bình thật sự được lập lại, khi mọi người đều có thể trở về bên những người thân yêu.

Lời kết

Bài thơ Bà mẹ miền Nam không chỉ là câu chuyện của một người mẹ và một người con, mà còn là bản trường ca về tình mẫu tử trong chiến tranh, về sự kiên cường của những người mẹ Việt Nam, và về niềm tin bất diệt vào ngày thống nhất.

Xuân Diệu đã viết bằng tất cả sự chân thành và yêu thương, để từ đó, mỗi người đọc đều cảm nhận được sự thiêng liêng của tình mẫu tử, cũng như giá trị của hòa bình. Hòa bình không chỉ là sự yên bình của đất nước, mà còn là sự đoàn tụ của những người thân yêu – thứ mà cả dân tộc đã chiến đấu và hy sinh để giành lấy.

*

Xuân Diệu – “Ông hoàng thơ tình” của văn học Việt Nam

Xuân Diệu (1916–1985), tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu, là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của nền văn học hiện đại Việt Nam. Với phong cách sáng tác độc đáo, giàu cảm xúc và khát vọng yêu đời mãnh liệt, ông đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bao thế hệ độc giả.

Sinh ra tại Hà Tĩnh nhưng lớn lên ở Quy Nhơn, Bình Định, Xuân Diệu sớm bộc lộ niềm đam mê văn chương. Ông là gương mặt tiêu biểu của phong trào Thơ Mới, mang đến một luồng sinh khí mới cho thi ca Việt Nam. Những tác phẩm như Thơ thơ (1938) hay Gửi hương cho gió (1945) thể hiện rõ nét giọng điệu sôi nổi, táo bạo, chan chứa tình yêu và khát khao tận hưởng vẻ đẹp cuộc sống.

Sau năm 1945, Xuân Diệu chuyển hướng sáng tác, hòa mình vào dòng chảy cách mạng, ca ngợi quê hương, đất nước và con người lao động. Dù ở giai đoạn nào, thơ ông vẫn giữ nguyên vẹn sự say mê và rung động sâu sắc. Những tác phẩm như Riêng chung (1960) hay Hai đợt sóng (1967) tiếp tục khẳng định vị trí của ông trên thi đàn.

Không chỉ là nhà thơ, Xuân Diệu còn là nhà văn, nhà phê bình có ảnh hưởng lớn. Năm 1996, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật, ghi nhận những đóng góp to lớn của mình.

Xuân Diệu vẫn mãi là biểu tượng của thơ tình Việt Nam, là tiếng nói tha thiết của một tâm hồn luôn khát khao yêu và sống trọn vẹn từng khoảnh khắc:

“Hãy tận hưởng ngày giờ đang thở,
Và yêu đời, hãy sống mạnh hơn tôi.”

Viên Ngọc Quý

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *