Cha đàng ngoài, mẹ ở đàng trong
Cha đàng ngoài, mẹ ở đàng trong.
Ông đồ Nghệ đeo khăn gói đỏ
Vượt đèo Ngang, kiếm nơi cần chữ.
Cha đàng ngoài, mẹ ở đàng trong.
Hai phía đèo Ngang: một mối tơ hồng.
Quê cha Hà Tĩnh đất hẹp khô rang,
Đói bao thuở, cơm chia phần từng bát.
Quê mẹ gió nồm thổi lên tươi mát,
Bình Định lúa xanh ôm bóng tháp Chàm.
Cha đàng ngoài, mẹ ở đàng trong.
Ông đồ nho lấy cô làm nước mắm.
Làng xóm cười giọng ông đồ trọ trẹ,
Nhưng quý ông đồ văn vẻ giỏi giang.
Bà ngoại nói: tôi trọng người chữ nghĩa,
Dám gả con cho cách tỉnh, xa đàng.
Tiếng đàng trong, tiếng đàng ngoài quấn quít
Vào giữa mái tranh, giường chõng, cột nhà
Rứa, mô, chừ? cha hỏi điều muốn biết,
Ngạc nhiên gì, mẹ thốt: úi chui cha!
Con trong võng êm lành kêu kẽo kẹt
Ru tuổi thơ theo hai điệu bổng trầm.
Mẹ thảnh thót: qua nhớ thương em bậu;
Cha hát dặm bài “Phụ tử tình thâm”.
Cha đàng ngoài, mẹ ở đàng trong.
Muốn ăn nhút, thì về quê với bố.
Muốn ăn quýt, ăn hồng, theo cha mày mà về ngoài đó,
Muốn uống nước dừa, ăn xoài chín đỏ,
Muốn ăn bánh tét, bánh tổ,
Thì theo tao, ở mãi trong này.
*
Đội ơn Thầy, đội ơn Má sinh con.
Cảm ơn Thầy vượt đèo Ngang bất kể!
Cảm ơn Má biết yêu người xứ Nghệ;
Nên máu con chung hoà cả hai miền.
6-1960
*
“Cha đàng ngoài, mẹ ở đàng trong” – Một tình yêu hoà quyện hai miền
Xuân Diệu, nhà thơ của tình yêu, không chỉ viết về những xúc cảm lứa đôi mà còn dành những vần thơ đẹp nhất để nói về tình yêu quê hương, nguồn cội. “Cha đàng ngoài, mẹ ở đàng trong” là một bài thơ thấm đượm tình cảm gia đình, ca ngợi sự hoà quyện giữa hai miền Bắc – Nam qua cuộc hôn nhân của cha mẹ tác giả. Bài thơ không chỉ là câu chuyện riêng của một gia đình, mà còn là hình ảnh của một đất nước thống nhất, nơi những dòng máu chung hòa vào nhau, nơi tình yêu xóa nhòa mọi cách biệt địa lý.
Hai miền, một mối tơ hồng
Mở đầu bài thơ, Xuân Diệu giới thiệu về cuộc hành trình của cha mình – một ông đồ Nghệ vượt đèo Ngang để tìm đường lập nghiệp:
“Ông đồ Nghệ đeo khăn gói đỏ
Vượt đèo Ngang, kiếm nơi cần chữ.”
Hình ảnh một người trí thức từ miền Bắc khăn gói vào Nam không chỉ là câu chuyện của riêng cha tác giả, mà còn là biểu tượng cho sự giao thoa giữa hai miền. Nếu miền Bắc nổi danh với truyền thống hiếu học, thì miền Nam lại nồng hậu, hiếu khách. Và rồi, từ hai miền ấy, một mối duyên đẹp đã kết nối:
“Cha đàng ngoài, mẹ ở đàng trong.
Hai phía đèo Ngang: một mối tơ hồng.”
Mối tình ấy không chỉ là duyên phận của hai con người, mà còn là sự gắn kết giữa hai vùng đất, hai nền văn hóa.
Khác biệt nhưng hòa hợp
Xuân Diệu tiếp tục khắc họa sự khác biệt giữa hai quê hương:
“Quê cha Hà Tĩnh đất hẹp khô rang,
Đói bao thuở, cơm chia phần từng bát.
Quê mẹ gió nồm thổi lên tươi mát,
Bình Định lúa xanh ôm bóng tháp Chàm.”
Một bên là miền đất Hà Tĩnh đầy nắng gió, khắc nghiệt nhưng kiên cường; một bên là Bình Định màu mỡ, trù phú và hiền hòa. Hai vùng đất tưởng chừng đối lập, nhưng lại hòa hợp trong một mái nhà, tạo nên một gia đình nơi tình yêu và sự cảm thông lấp đầy mọi khoảng cách.
Hôn nhân của cha mẹ Xuân Diệu không chỉ là sự kết hợp giữa hai con người, mà còn là sự hòa quyện giữa ngôn ngữ, văn hóa:
“Tiếng đàng trong, tiếng đàng ngoài quấn quít
Vào giữa mái tranh, giường chõng, cột nhà
Rứa, mô, chừ? cha hỏi điều muốn biết,
Ngạc nhiên gì, mẹ thốt: úi chui cha!”
Sự khác biệt về giọng điệu, cách nói không trở thành rào cản, mà lại trở thành điều đáng yêu, đáng trân trọng trong đời sống gia đình.
Tình yêu quê hương qua từng hương vị
Xuân Diệu đã rất tinh tế khi gợi nhớ quê hương không chỉ bằng hình ảnh mà còn bằng hương vị:
“Muốn ăn nhút, thì về quê với bố.
Muốn ăn quýt, ăn hồng, theo cha mày mà về ngoài đó,
Muốn uống nước dừa, ăn xoài chín đỏ,
Muốn ăn bánh tét, bánh tổ,
Thì theo tao, ở mãi trong này.”
Nhút mít, quýt, hồng của miền Bắc đối lập với xoài, dừa, bánh tét của miền Nam. Những món ăn không chỉ là hương vị của quê nhà, mà còn là biểu tượng của hai miền đất. Trong sự khác biệt ấy, Xuân Diệu không chọn một bên, mà trân trọng cả hai, bởi cả hai đều là máu thịt của mình.
Lời tri ân và niềm tự hào
Cuối bài thơ, Xuân Diệu bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với cha mẹ:
“Đội ơn Thầy, đội ơn Má sinh con.
Cảm ơn Thầy vượt đèo Ngang bất kể!
Cảm ơn Má biết yêu người xứ Nghệ;
Nên máu con chung hoà cả hai miền.”
Không chỉ là lời cảm ơn cha mẹ đã sinh thành, bài thơ còn là một sự tri ân đối với sự hòa hợp Bắc – Nam mà cha mẹ ông đã xây dựng. Chính tình yêu ấy đã tạo ra một thế hệ mới, nơi không còn ranh giới, nơi chỉ còn sự thống nhất trong máu thịt và tâm hồn.
Lời kết
“Cha đàng ngoài, mẹ ở đàng trong” không chỉ là một bài thơ về tình cảm gia đình, mà còn là một thông điệp sâu sắc về sự gắn kết giữa hai miền Bắc – Nam. Bài thơ không chỉ nói về chuyện tình yêu của cha mẹ Xuân Diệu, mà còn là biểu tượng của một đất nước chung một dòng máu, chung một tình yêu.
Qua bài thơ, Xuân Diệu nhắc nhở rằng dù có bao nhiêu khác biệt, dù có khoảng cách địa lý hay văn hóa, thì tình yêu và sự thấu hiểu luôn có thể gắn kết con người lại với nhau. Và cũng như chính tác giả – một người con của cả hai miền – đất nước Việt Nam mãi mãi là một thể thống nhất, không thể tách rời.
*
Xuân Diệu – “Ông hoàng thơ tình” của văn học Việt Nam
Xuân Diệu (1916–1985), tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu, là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của nền văn học hiện đại Việt Nam. Với phong cách sáng tác độc đáo, giàu cảm xúc và khát vọng yêu đời mãnh liệt, ông đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bao thế hệ độc giả.
Sinh ra tại Hà Tĩnh nhưng lớn lên ở Quy Nhơn, Bình Định, Xuân Diệu sớm bộc lộ niềm đam mê văn chương. Ông là gương mặt tiêu biểu của phong trào Thơ Mới, mang đến một luồng sinh khí mới cho thi ca Việt Nam. Những tác phẩm như Thơ thơ (1938) hay Gửi hương cho gió (1945) thể hiện rõ nét giọng điệu sôi nổi, táo bạo, chan chứa tình yêu và khát khao tận hưởng vẻ đẹp cuộc sống.
Sau năm 1945, Xuân Diệu chuyển hướng sáng tác, hòa mình vào dòng chảy cách mạng, ca ngợi quê hương, đất nước và con người lao động. Dù ở giai đoạn nào, thơ ông vẫn giữ nguyên vẹn sự say mê và rung động sâu sắc. Những tác phẩm như Riêng chung (1960) hay Hai đợt sóng (1967) tiếp tục khẳng định vị trí của ông trên thi đàn.
Không chỉ là nhà thơ, Xuân Diệu còn là nhà văn, nhà phê bình có ảnh hưởng lớn. Năm 1996, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật, ghi nhận những đóng góp to lớn của mình.
Xuân Diệu vẫn mãi là biểu tượng của thơ tình Việt Nam, là tiếng nói tha thiết của một tâm hồn luôn khát khao yêu và sống trọn vẹn từng khoảnh khắc:
“Hãy tận hưởng ngày giờ đang thở,
Và yêu đời, hãy sống mạnh hơn tôi.”
Viên Ngọc Quý