Cói
Tặng nông trường cói Thanh niên ở huyện Tiền Hải, Thái Bình
Gợn đến chân trời cói – cói
Bốn bề một sắc xanh roi rói
Bạt ngàn tấm thảm gió vào lăn
Hoa điểm lăn tăn như khẽ nói…
Đấy nông trường “Thanh niên”, Thái Bình
Cuối huyện Tiền Hải, bãi mông mênh
Quai đê đẩy sóng lùi xa mãi
Biển rút ra Cồn Cửa, Cồn Vành
Hai mười năm trước, sóng còn vỗ
Chân cột hải đăng đêm dọi tỏ…
Hải đăng giờ đây giữa đất liền
Quấn quít bên chân khoai với đỗ
Nông trường ta mở sáu năm thôi
Trí lực làm cho tốt bãi bồi
Một mét phù sa trên đất cát
Đủ cho cây cói tới sinh sôi
Bộ đội phục viên và tuổi trẻ
Mới đủ sức làm, làm chẳng kể…
Ngâm mình gặt cói, nước hè sôi
Cói tốt kín đầu, ôi, ngốt thở
Đêm lo chẻ cói kịp mai phơi
Phơi muộn thì không đủ nắng rồi
Mới đến giữa chiều, thu cói lại
Kẻo sương, cói lại mở ra thôi
Làm ăn rất cực, nhưng chân chất
Tình cảm gắn nhau, và gắn đất
Lội bảy ngày đêm dưới nước liền
Vẫn thích đùa vui, ham múa hát
Nay mai ta lại mở đồng thêm
Tấn cói hằng năm tới bảy nghìn
Xưởng dệt Hải Âu ra chiếu, thảm
Gửi đi xứ lạ vút đường chim
Tôi tới thăm đây, thấy rập rờn
“Búp đòng khoang cổ” giống Nga Sơn
Con chim sẻ hiền bay cao hót
Mà tiếng hồn ta bát ngát hơn…
Gợn đến chân trời, là cói – cói
Bốn bề một sắc xanh roi rói
Bạt ngàn tấm thảm gió vào lăn
Hoa điểm lăn tăn như khẽ nói…
1978
*
Cói – Khúc ca lao động và sức sống bền bỉ
Giữa những trang thơ đậm chất trữ tình của Xuân Diệu, Cói mang đến một hơi thở khác – hơi thở của đất, của nước, của những con người gắn bó với thiên nhiên, lao động và kiến tạo cuộc sống. Bài thơ như một bức tranh rộng lớn về một vùng đất bồi đắp bởi mồ hôi, công sức của những con người trẻ trung, đầy nhiệt huyết – những người đã biến sóng nước mênh mông thành một nông trường xanh bát ngát.
“Gợn đến chân trời cói – cói
Bốn bề một sắc xanh roi rói
Bạt ngàn tấm thảm gió vào lăn
Hoa điểm lăn tăn như khẽ nói…”
Từ những dòng đầu tiên, Xuân Diệu đã vẽ lên một cảnh tượng rộng lớn, bao la với màu xanh bạt ngàn của cói. Không chỉ là một loài cây bình thường, cói trong thơ ông như một biểu tượng của sự sống vươn lên mạnh mẽ, của thiên nhiên đã được con người chinh phục và biến thành những cánh đồng trù phú. Màu xanh ấy không chỉ là màu của cây cỏ, mà còn là màu của niềm hy vọng, của những giấc mơ đang dần trở thành hiện thực.
Nông trường Thanh niên, nơi những con người trẻ đã dành cả thanh xuân để biến vùng đất đầy sóng gió thành đồng cói bát ngát, hiện lên qua những câu thơ đầy tự hào. Xuân Diệu không chỉ ngợi ca thiên nhiên mà còn khắc họa rõ nét dấu ấn con người:
“Hai mười năm trước, sóng còn vỗ
Chân cột hải đăng đêm dọi tỏ…
Hải đăng giờ đây giữa đất liền
Quấn quít bên chân khoai với đỗ”
Hình ảnh hải đăng không còn đứng giữa biển khơi mà đã lùi sâu vào đất liền là minh chứng cho sự thay đổi kỳ diệu mà con người mang lại. Thiên nhiên đã nhường bước trước ý chí và sức mạnh lao động. Con người đã lấn biển, mở đất, dựng xây cuộc sống mới trên vùng bãi bồi xưa.
Thế nhưng, thành quả ấy không tự nhiên mà có. Đằng sau cánh đồng cói bạt ngàn là những ngày tháng gian lao, vất vả, là những giọt mồ hôi thấm đẫm vào đất:
“Ngâm mình gặt cói, nước hè sôi
Cói tốt kín đầu, ôi, ngốt thở”
Những câu thơ ngắn gọn mà đầy sức nặng. Người lao động không chỉ chịu cái nắng hè oi ả, mà còn phải ngâm mình trong nước, gặt từng cây cói, phơi từng sợi cói. Công việc không đơn thuần là một hành động lặp đi lặp lại, mà là một sự kiên trì, bền bỉ, là một tình yêu với mảnh đất này.
Dẫu vậy, dù gian khổ, họ vẫn gắn bó với nhau bằng những tình cảm chân chất nhất:
“Làm ăn rất cực, nhưng chân chất
Tình cảm gắn nhau, và gắn đất
Lội bảy ngày đêm dưới nước liền
Vẫn thích đùa vui, ham múa hát”
Họ không chỉ gắn bó với đất mà còn gắn bó với nhau bằng tình đồng đội, tình yêu lao động. Họ tìm thấy niềm vui ngay trong những nhọc nhằn, tìm thấy hạnh phúc ngay giữa những ngày dài lội nước. Đó là vẻ đẹp của con người Việt Nam – những con người không ngại gian khó, luôn lạc quan và tràn đầy sức sống.
Bài thơ khép lại bằng hình ảnh rộng lớn của cánh đồng cói – như một sự tiếp nối, như một niềm tin về tương lai tươi sáng.
“Gợn đến chân trời, là cói – cói
Bốn bề một sắc xanh roi rói
Bạt ngàn tấm thảm gió vào lăn
Hoa điểm lăn tăn như khẽ nói…”
Từ những cây cói nhỏ bé, con người đã dệt nên một cuộc sống, một tương lai. Cói không chỉ là bài thơ về thiên nhiên, mà còn là bài thơ về con người – những con người lao động đầy nhiệt huyết, những con người đã biến mảnh đất hoang sơ thành một vùng trù phú.
Xuân Diệu, với ngòi bút đầy yêu thương và trân trọng, đã khắc họa một bức tranh vừa chân thực, vừa tràn đầy cảm xúc. Cói là khúc ca của lao động, của thiên nhiên và của những con người đã đặt cả trái tim mình vào từng nhánh cói, từng tấc đất quê hương.
*
Xuân Diệu – “Ông hoàng thơ tình” của văn học Việt Nam
Xuân Diệu (1916–1985), tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu, là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của nền văn học hiện đại Việt Nam. Với phong cách sáng tác độc đáo, giàu cảm xúc và khát vọng yêu đời mãnh liệt, ông đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bao thế hệ độc giả.
Sinh ra tại Hà Tĩnh nhưng lớn lên ở Quy Nhơn, Bình Định, Xuân Diệu sớm bộc lộ niềm đam mê văn chương. Ông là gương mặt tiêu biểu của phong trào Thơ Mới, mang đến một luồng sinh khí mới cho thi ca Việt Nam. Những tác phẩm như Thơ thơ (1938) hay Gửi hương cho gió (1945) thể hiện rõ nét giọng điệu sôi nổi, táo bạo, chan chứa tình yêu và khát khao tận hưởng vẻ đẹp cuộc sống.
Sau năm 1945, Xuân Diệu chuyển hướng sáng tác, hòa mình vào dòng chảy cách mạng, ca ngợi quê hương, đất nước và con người lao động. Dù ở giai đoạn nào, thơ ông vẫn giữ nguyên vẹn sự say mê và rung động sâu sắc. Những tác phẩm như Riêng chung (1960) hay Hai đợt sóng (1967) tiếp tục khẳng định vị trí của ông trên thi đàn.
Không chỉ là nhà thơ, Xuân Diệu còn là nhà văn, nhà phê bình có ảnh hưởng lớn. Năm 1996, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật, ghi nhận những đóng góp to lớn của mình.
Xuân Diệu vẫn mãi là biểu tượng của thơ tình Việt Nam, là tiếng nói tha thiết của một tâm hồn luôn khát khao yêu và sống trọn vẹn từng khoảnh khắc:
“Hãy tận hưởng ngày giờ đang thở,
Và yêu đời, hãy sống mạnh hơn tôi.”
Viên Ngọc Quý