Cảm nhận bài thơ: Gánh – Xuân Diệu

Gánh

 

Không phải chuyện đời xưa, mà chuyện đời nay,
Có một người chất vạn gánh trên vai,
Vạn gánh đầy tràn, gánh to, gánh nhỏ,
Gánh như núi, gánh dồn như thác đổ
Trên đôi vai. Người ấy gánh, và đi!

Bao nhiêu mặt trận rồi? Bao nhiêu tiền tuyến?
Ba mươi năm! hết chuyến rồi lại chuyến!
Tưởng là đây, nơi nghỉ mệt, lấy hơi,
Tưởng một phút này quạt mát, ngồi chơi,
Nhưng mà không! mới lau mồ hôi trán
Đã lại bước, đặng dành trời ánh sáng!
Vừa sinh ra trong nước mắt, mồ hôi,
Nhổ tre pheo đánh cho địch tơi bời!
Lớn lên trong tù, chân còng xích sắt,
Mà tay trắng thành ngọn dao, đã chặt!
Mới vươn vai, mừng đạp đất đội trời,
Đã ầm ầm lửa khói lũ tanh hôi,
Đã lại trường chinh dọc dài theo biển,
Lấy dãy Trường Sơn làm đòn gánh,
Lấy hai mươi triệu làm một người,
Lấy bốn nghìn năm làm thế dựa,
Như một người gánh nặng đường trơn
Mười ngón chân xoè bám sâu xuống đất,
Bặm môi bước, gánh nặng nề cũng nhấc!
Trận này chưa phải trận cuối cùng:
Đau khổ năm năm, mặt trận dành thống nhất,
Thà nghiến thịt bầm xương
Hơn là đứt gan đứt ruột!
Con người mang muôn gánh ở trên vai
Nhìn mặt trời mọc đỏ, bước khoan thai,
Chân cứng đá mềm, – và đang còn mặt trận
Dài đến vô cùng
Tên gọi là: Xây dựng!

Trăm dâu đổ đầu tằm,
Trăm trách nhiệm đổ vào người trách nhiệm.
Bàn ghế ở đâu xộc xệch: người ấy phải lo.
Đường sá ở đâu bụi bặm: người ấy phải lo.
Trẻ con bụng còn dun lãi: người ấy phải lo.
Hàng xóm bực mình chửi đổng: người ấy phải lo.

Một lá rau, hạt muối: cũng cơ đồ;
Một tấm áo cũng to như biển cả;
Một người khóc, phải giải sầu, nâng đỡ;
Trên núi còn run: lỗi đó tại mình!

Gánh mưa vừa cạn. Gánh hạn đã sang;
Đê mới đắp. Bão rập rình muốn tới.
Chống mù chữ. Chống chữ mù trở lại,
Lo trồng cây. Vì lo thiếu cột nhà.

Chuyện tâm hồn, lo khúc hát, bài ca.
Lo tiếng nói, đặng nói ra khúc chiết.
Vũ trụ đó, mau phòng vào xa tít!
Khối óc luôn luôn khởi những công trình.

Ôi người yêu, yêu hơn cả ái tình,
Người rất mực xa xanh và đỏ thắm,
Người gần gũi và bao la vạn dặm,
Người một người và ức triệu con người,
Ba mươi năm, và sau, trước: muôn đời.
Người gánh gánh của chúng tôi: là Đảng.
Người gánh gánh với chúng ta: là Đảng.
Người gánh ta, ta gánh Người: là Đảng.
Người gánh đất, Người gánh trời: là Đảng.
Ôi ngời ngời Đảng Cộng sản Đông Dương,
Đảng Lao động Việt Nam, là một đó;
Kim tự tháp diệu kỳ trong vũ trụ,
Hồ Chí Minh là đỉnh sáng: ngôi sao,
Và thân mình dám ngạo cả trời cao
Là vai gắn của biết bao đồng chí.
Và nền tảng vững vàng hơn chiến luỹ
Là nhân dân, là dân tộc quật cường.

Không phải chuyện đời xưa, mà chuyện đời nay,
Chuyện đời nay mới cao dày đến thế;
Chuyện của Đảng, lớn lao và tập thể.
Gánh lúc đầu còn đòn gánh thủ công,
Gánh hôm nay đã rèn thép, đúc đồng,
Gánh ngày mai có thể là đòn bẩy
Sức nguyên tử trong tay quần chúng dậy,
Gánh to, gánh nhỏ, nhiệm vụ thật đầy,
Đảng cùng ta phá,
Đảng cùng ta xây!


11-1959

*

“Gánh” – Biểu Tượng Của Trách Nhiệm Và Lý Tưởng

Khi đọc bài thơ Gánh của Xuân Diệu, ta không chỉ cảm nhận được sự nặng nề của những gánh vác trên đôi vai một con người, mà còn thấy trong đó sức mạnh phi thường của một dân tộc, của một ý chí vươn lên không ngừng nghỉ. Không phải chuyện đời xưa, mà là chuyện đời nay – câu thơ mở đầu vang lên như một lời khẳng định: đây là câu chuyện của chính chúng ta, của một đất nước đã trải qua biết bao gian truân và vẫn tiếp tục tiến về phía trước.

Gánh nặng của lịch sử – gánh vác của dân tộc

Ngay từ những câu thơ đầu tiên, Xuân Diệu đã vẽ nên hình ảnh một con người với đôi vai trĩu nặng:

“Có một người chất vạn gánh trên vai,
Vạn gánh đầy tràn, gánh to, gánh nhỏ,
Gánh như núi, gánh dồn như thác đổ
Trên đôi vai. Người ấy gánh, và đi!”

Hình ảnh ấy không chỉ là một ẩn dụ về sự vất vả, mà còn thể hiện sự bền bỉ, kiên cường. Người gánh ở đây không đơn thuần là một cá nhân mà chính là Đảng, là dân tộc, là cả một hành trình lịch sử mà nhân dân ta đã đi qua suốt ba mươi năm chiến đấu giành độc lập và xây dựng đất nước. Những gánh nặng ấy là chiến tranh, là mất mát, là tù đày, là những cuộc trường chinh không ngừng nghỉ.

Nhưng người gánh không dừng lại, không gục ngã. Dù chiến tranh đã lùi xa, thì những gánh nặng mới lại xuất hiện – đó là gánh nặng của hòa bình, của thống nhất, của xây dựng.

Từ chiến đấu đến xây dựng – một hành trình không ngừng

Sau khi đất nước được giải phóng, tưởng như sẽ có phút giây nghỉ ngơi, nhưng không – cuộc chiến đấu lại tiếp tục, chỉ có điều giờ đây, trận chiến ấy mang tên xây dựng:

“Trận này chưa phải trận cuối cùng:
Đau khổ năm năm, mặt trận dành thống nhất,
Thà nghiến thịt bầm xương
Hơn là đứt gan đứt ruột!”

Chúng ta không còn chiến đấu với kẻ thù xâm lược, nhưng lại đối mặt với những thử thách khác: cái nghèo, cái đói, sự lạc hậu. Để có được một đất nước giàu mạnh, mỗi người đều phải tiếp tục gánh vác trách nhiệm, từ những việc nhỏ nhất như cải thiện đời sống, chăm lo cho từng người dân, đến những việc lớn lao như phát triển khoa học, công nghệ, công nghiệp hóa đất nước.

Gánh nặng này không chỉ là vật chất mà còn là tinh thần, là trách nhiệm trước mỗi hành động, mỗi quyết định:

“Một lá rau, hạt muối: cũng cơ đồ;
Một tấm áo cũng to như biển cả;
Một người khóc, phải giải sầu, nâng đỡ;
Trên núi còn run: lỗi đó tại mình!”

Mỗi điều nhỏ bé trong cuộc sống đều mang theo ý nghĩa lớn lao. Xây dựng một đất nước không chỉ là những công trình vĩ đại mà còn là sự quan tâm, lo lắng cho từng con người, từng mái nhà, từng niềm vui, nỗi buồn của nhân dân.

Đảng – người gánh vác vĩ đại của nhân dân

Đến cuối bài thơ, Xuân Diệu đã khẳng định rõ ràng: người gánh trên đôi vai gánh nặng muôn đời ấy chính là Đảng – Đảng của nhân dân, Đảng vì nhân dân, Đảng đồng hành cùng nhân dân:

“Người gánh gánh của chúng tôi: là Đảng.
Người gánh gánh với chúng ta: là Đảng.
Người gánh ta, ta gánh Người: là Đảng.
Người gánh đất, Người gánh trời: là Đảng.”

Hình ảnh Đảng trong bài thơ không phải là một khái niệm trừu tượng, mà là một thực thể sống động, gắn bó với từng bước đi của dân tộc. Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đồng hành, chia sẻ mọi khó khăn với nhân dân.

Hình ảnh “Kim tự tháp diệu kỳ trong vũ trụ” với “Hồ Chí Minh là đỉnh sáng: ngôi sao” đã nâng tầm tư tưởng của bài thơ, khẳng định rằng Đảng không chỉ là người dẫn đường mà còn là ánh sáng soi rọi con đường phía trước.

Lời kết

Bài thơ Gánh không chỉ là một bản hùng ca về lịch sử, mà còn là một lời nhắc nhở về trách nhiệm của mỗi con người trong công cuộc xây dựng đất nước. Những gánh nặng ấy sẽ không bao giờ hết, nhưng nếu mỗi người đều sẵn sàng gánh vác, nếu nhân dân và Đảng cùng chung một con đường, thì dù thử thách có lớn đến đâu, chúng ta cũng sẽ vượt qua.

Xuân Diệu đã kết thúc bài thơ bằng một hình ảnh mạnh mẽ, đầy khát vọng:

“Gánh ngày mai có thể là đòn bẩy
Sức nguyên tử trong tay quần chúng dậy,
Gánh to, gánh nhỏ, nhiệm vụ thật đầy,
Đảng cùng ta phá,
Đảng cùng ta xây!”

Xây dựng đất nước là một hành trình dài, nhưng với sự đồng lòng của cả dân tộc, với niềm tin vào Đảng, chúng ta sẽ không ngừng tiến lên, đưa đất nước vươn tới những đỉnh cao mới. Và mỗi chúng ta – ai cũng là một người gánh, ai cũng góp phần vào hành trình vĩ đại này.

*

Xuân Diệu – “Ông hoàng thơ tình” của văn học Việt Nam

Xuân Diệu (1916–1985), tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu, là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của nền văn học hiện đại Việt Nam. Với phong cách sáng tác độc đáo, giàu cảm xúc và khát vọng yêu đời mãnh liệt, ông đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bao thế hệ độc giả.

Sinh ra tại Hà Tĩnh nhưng lớn lên ở Quy Nhơn, Bình Định, Xuân Diệu sớm bộc lộ niềm đam mê văn chương. Ông là gương mặt tiêu biểu của phong trào Thơ Mới, mang đến một luồng sinh khí mới cho thi ca Việt Nam. Những tác phẩm như Thơ thơ (1938) hay Gửi hương cho gió (1945) thể hiện rõ nét giọng điệu sôi nổi, táo bạo, chan chứa tình yêu và khát khao tận hưởng vẻ đẹp cuộc sống.

Sau năm 1945, Xuân Diệu chuyển hướng sáng tác, hòa mình vào dòng chảy cách mạng, ca ngợi quê hương, đất nước và con người lao động. Dù ở giai đoạn nào, thơ ông vẫn giữ nguyên vẹn sự say mê và rung động sâu sắc. Những tác phẩm như Riêng chung (1960) hay Hai đợt sóng (1967) tiếp tục khẳng định vị trí của ông trên thi đàn.

Không chỉ là nhà thơ, Xuân Diệu còn là nhà văn, nhà phê bình có ảnh hưởng lớn. Năm 1996, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật, ghi nhận những đóng góp to lớn của mình.

Xuân Diệu vẫn mãi là biểu tượng của thơ tình Việt Nam, là tiếng nói tha thiết của một tâm hồn luôn khát khao yêu và sống trọn vẹn từng khoảnh khắc:

“Hãy tận hưởng ngày giờ đang thở,
Và yêu đời, hãy sống mạnh hơn tôi.”

Viên Ngọc Quý

Bạn có thể chia sẻ bài viết qua:

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *