Lệ
Tặng Cách mạng tháng Tám
và Cách mạng tháng Mười
I
Từng tuôn giọt lệ mấy muôn năm
Lấp cả con người bởi bụi lầm!
Đựng nát là gan, rơi thấm đá,
Vạch trời, từng đã xé hờn căm!
Nghẹn ngào lên cổ, mắt mờ hoa
Tan vỡ trên môi một tiếng oà.
Nếm mãi vị buồn ghê mặn, chát,
Người ôi! lạnh đói gỡ không ra.
Những đôi trai gái trước yêu đương
Biết mấy chia duyên lại cách đường!
Cha mẹ nói oan, quan nói hiếp,
Mực mài nước mắt gửi người thương.
Thầm không tiếc nấc nỗi cô dâu,
Nỗi gái buôn mình, nỗi vợ hầu.
Áo chị nữ tì lau chẳng ráo;
Gối người sương phụ thấm canh thâu.
Có khi lai láng huyết ra tòng
Nước mất nhà tan hận chẳng cùng!
Có lúc trải nhiều oan nghiệt quá,
Mắt khô, lệ gạn chảy vào trong…
Trăm ngàn kiếp lệ cuốn theo sông,
Biển chứa long lanh sóng vạn trùng!
Trái đất – ba phần tư nước mắt
Đi như giọt lệ giữa không trung.
II
Trong khoảng đời đau khổ ấy, tôi sinh.
Tôi lớn lên, cay đắng những tâm tình.
Dân nô lệ ở trong vòng lưới sắt,
Mỗi cử động, tôi thấy đều vướng mắc;
Đi trong đời như một kẻ lột da,
Rách đau thương ở giữa bọn gian tà.
Nhìn dân chúng khổ vì đâu, chẳng biết!
Vũ trụ tưởng tàn, thế gian tưởng hết,
Không đấu tranh mà chỉ có thương tâm,
Tôi thảm một mình, quẩn tháng quanh năm.
Thuở đau ấy, sao dễ dàng tê tái!
Một bóng trăng đi, một làn gió tới,
Rụng lá trên cây, nhạt nắng trong chiều,
Khóc còi tàu đem khuất mất người yêu,
Khóc với nhạc sầu biệt người chín suối,
Tìm can đảm trong vô cùng yếu đuối,
Vẫy mùi soa đưa tiễn cả thời gian,
Gắng ươm hoa trên những đống tro tàn!
Sa mạc đời tỉ tê dòng suối khóc,
Kho của cải chỉ còn hàng lệ ngọc!
Khóc là ngôn ngữ để tỏ yêu đương,
Khóc thấy êm đềm, lệ có mùi hương!
Khóc mà khóc, chẳng vì sao nữa cả…
Như đoàn kết những nỗi buồn thiên hạ,
Như góp thu giọt lệ của muôn đời!
*
– Máu của linh hồn là nước mắt
Còn rơi biết đến lúc nào thôi?
III
Đến bây giờ Cách mạng tuổi mười hai,
Đã bốn mươi năm Cách mạng tháng Mười,
Vui Khởi nghĩa, gian khổ cùng Kháng chiến,
Chia với nhân dân cay đắng ngọt bùi,
Như gỗ thuyền ăn chịu cùng muối biển,
Cách mạng dần dần thay đổi hồn tôi.
Tôi hãy còn những khi rơi lệ cũ,
Nhưng cũng lạ! giữa mưa ngàn thác lũ,
Bốn bề cây, sao chẳng thấy bơ vơ?
Chân rớm máu, mồ hôi nhiều có đổ,
Sao mắt tôi không thấy lệ hoen mờ.
Tôi đã trải những đau lòng tột độ,
Căm uất đốt đôi thái dương muốn nổ,
Giặc giết bạn tôi, giặc bắn rụi nhà,
Nhìn thóc cháy khi đồng bào đói khổ,
Lệ tôi dàn; rồi đứng lại, không sa.
Tôi ít khóc, hay khóc thì cũng ngắn.
Mạch sầu thảm như dừng dừng cạn cạn,
Mây buồn thương như lảng lảng xa xa,
Mắt trong tỏ… – nhưng lạ lùng vô hạn!
Bỗng một nguồn lệ mới lại tuôn ra.
Một nguồn lệ từ bao la vĩ đại,
Từ nghĩa lớn của nhân quần, sông núi,
Từ tương lai, từ phơi phới trên cao,
Ào ạt tới như mùa xuân đổ suối,
Sương sớm mai trên mặt thắm hoa đào.
Nói sao đây với ơn nghĩa đồng bào;
Những lớp mở trong những làng, những bản,
Một bó chè tươi, một rổ khoai lang,
Các mẹ đến thăm với cả lòng vàng,
Trời nắng nỏ, đi mười lăm cây số,
Mặt nhăn nhíu như gốc già cổ thụ,
Cười thương yêu như mầm biếc. Tôi vui
Hai tay nhận quà, bỗng ở trong tôi
Lệ ùn đến – may nửa chừng ngừng lại,
Cay sống mũi như là ăn rau cải!
Ấm thay tình đồng chí giữa đêm đông;
Họp chi bộ rồi, đèn dọc vẫn chong,
Chúng ta kể những mẩu đời trước cũ;
Bao nhiêu kiếp đầu thai qua cửa khổ,
Đến bây giờ rộng mở cả mai sau;
Những đảo cô đơn, Đảng nối nhịp cầu;
Yêu nhau quá, ta để tràn tâm tưởng,
Lòng càng khóc, càng nhẹ nhàng sung sướng!
Khi một đoàn khăn đỏ thiếu niên qua,
Khi quê vui như đón ruộng về nhà:
Hoặc đỉnh đèo cao, nhìn trùm Tổ quốc,
Có gì thương, gì mến ở xa xa…
Khi ta muốn ào ra
Với non sông hay quần chúng chan hoà:
Những lúc đó, lòng đầy vui khẽ thắt…
Tôi đã biết rồi. Sắp dàn nước mắt.
Ở sân bay
Bộ đội ta chào đồng chí Chu Ân Lai.
Tôi thấy các anh ăn mặc sáng ngời,
Mắt thẳng trước, họ bước đều như thép,
Bỗng chạm vào tôi – một cái gì cao đẹp,
Bất thần đâu nước mắt ứa tự nhiên,
Tôi phải quay đi, sợ các bạn nhìn.
*
– Ôi thật dạt dào, đắm say, kỳ ảo
Những giọt lệ loài người vừa sáng tạo!
IV
Hãy cảm ơn Đảng Cộng sản, lòng ta ơi!
Hãy cảm ơn những người dựng con người;
Hãy cảm ơn Hồ Chí Minh đồng chí
Đã rèn luyện một nửa già thế kỷ,
Xây dựng từng chi bộ, dành từng tấc non sông!
Tôi cũng cảm ơn anh bộ đội anh hùng,
Ơn anh thợ, ơn anh cày lao lực;
Cảm ơn cả những vồng khoai, luống đất
Nuôi tôi no để biết khóc vì thương,
Khóc vì vui, và cả khóc vì buồn.
Ta chủ động hồn ta sinh nước mắt,
Đó là suối tưới cho hồn dịu mát;
Xưa lệ sa, ta oán hận đất trời,
Nay lệ hoà, ta lại thấy đời tươi!
*
* *
– Giọt nước mắt ta
Chan chứa tình người.
1957
*
Lệ – Những Giọt Nước Mắt Của Lịch Sử Và Hy Vọng
Trong dòng chảy của lịch sử, nước mắt chưa bao giờ là điều xa lạ với con người. Nhưng giọt nước mắt trong thơ Xuân Diệu không chỉ đơn thuần là biểu hiện của đau khổ hay yếu đuối, mà còn mang trong mình cả một hành trình chuyển hóa – từ bi thương đến giác ngộ, từ uất hận đến tự hào. Lệ không chỉ là một bài thơ, mà là tiếng lòng của một dân tộc đã đi qua những đêm dài tăm tối, để rồi tìm thấy ánh sáng trên con đường cách mạng.
Những giọt lệ của kiếp người – nỗi đau ngàn năm
Phần đầu bài thơ vẽ nên một bức tranh đầy u ám của những kiếp người chìm trong áp bức, đọa đày:
“Từng tuôn giọt lệ mấy muôn năm
Lấp cả con người bởi bụi lầm!”
Nước mắt đã rơi không biết bao nhiêu lần, không biết bao nhiêu năm, như thể cả nhân gian chìm trong biển lệ. Những giọt nước mắt ấy không chỉ là nỗi buồn cá nhân mà là nỗi đau chung của dân tộc – đau vì nghèo đói, đau vì bất công, đau vì những cuộc chia ly, tan tác:
“Cha mẹ nói oan, quan nói hiếp,
Mực mài nước mắt gửi người thương.”
Nước mắt của kẻ nô lệ, của người vợ bị ép gả, của đứa trẻ bị đói rét, của người dân mất nước – tất cả hợp lại thành một đại dương bi thương. Và dường như thế giới này được gắn kết bằng nước mắt:
“Trái đất – ba phần tư nước mắt
Đi như giọt lệ giữa không trung.”
Một hình ảnh mạnh mẽ nhưng đau đớn. Đất trời, nhân loại, tất cả chìm trong giọt lệ của muôn đời.
Từ uất hận đến đấu tranh – bước ngoặt của lịch sử
Xuân Diệu không chỉ nói về nỗi đau mà còn đi xa hơn – ông chỉ ra sự bế tắc của một thời kỳ mà nước mắt chỉ là biểu hiện của sự bất lực:
“Không đấu tranh mà chỉ có thương tâm,
Tôi thảm một mình, quẩn tháng quanh năm.”
Những giọt nước mắt khi không gắn với hành động, chỉ là sự cam chịu, là vòng luẩn quẩn của tuyệt vọng. Nhưng rồi, cách mạng đến. Những giọt nước mắt không còn là dấu hiệu của sự yếu đuối mà trở thành biểu tượng của sức mạnh mới:
“Cách mạng dần dần thay đổi hồn tôi.”
Người chiến sĩ không còn khóc vì bị áp bức, mà rơi lệ trước lòng nhân ái, trước tinh thần đoàn kết của nhân dân.
Nước mắt của tình yêu, của niềm tin và hi vọng
Nếu như trước đây, nước mắt chỉ là nỗi đau, thì giờ đây, nó lại là giọt lệ của niềm tin, của sự cảm động trước tình yêu thương đồng bào:
“Nói sao đây với ơn nghĩa đồng bào;
Những lớp mở trong những làng, những bản,
Một bó chè tươi, một rổ khoai lang,
Các mẹ đến thăm với cả lòng vàng.”
Những hình ảnh bình dị ấy, tưởng chừng nhỏ bé, nhưng lại khiến lòng người rung động đến tận sâu thẳm. Nước mắt giờ đây không còn cay đắng mà trở thành biểu tượng của hạnh phúc, của sự gắn kết, của một tương lai rộng mở.
Và cuối cùng, giọt nước mắt không còn mang màu sắc cá nhân, mà đã hóa thành những giọt lệ của nhân loại, của một thế giới đang vươn lên từ bóng tối:
“Ôi thật dạt dào, đắm say, kỳ ảo
Những giọt lệ loài người vừa sáng tạo!”
Lời kết
Bài thơ Lệ của Xuân Diệu là một hành trình đi từ bóng tối đến ánh sáng, từ nỗi đau đến hy vọng, từ bi thương đến hạnh phúc. Nước mắt không còn chỉ là biểu hiện của sự yếu đuối, mà trở thành một phần của lịch sử, của sự chuyển hóa và trưởng thành.
Xuân Diệu kết thúc bài thơ bằng một lời nhắn nhủ đầy ý nghĩa:
“Giọt nước mắt ta
Chan chứa tình người.”
Nước mắt của hôm qua là nước mắt của đau thương, nhưng nước mắt của hôm nay là nước mắt của lòng nhân ái, của sự cảm thông và gắn kết. Và đó mới chính là những giọt nước mắt đáng trân trọng nhất.
*
Xuân Diệu – “Ông hoàng thơ tình” của văn học Việt Nam
Xuân Diệu (1916–1985), tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu, là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của nền văn học hiện đại Việt Nam. Với phong cách sáng tác độc đáo, giàu cảm xúc và khát vọng yêu đời mãnh liệt, ông đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bao thế hệ độc giả.
Sinh ra tại Hà Tĩnh nhưng lớn lên ở Quy Nhơn, Bình Định, Xuân Diệu sớm bộc lộ niềm đam mê văn chương. Ông là gương mặt tiêu biểu của phong trào Thơ Mới, mang đến một luồng sinh khí mới cho thi ca Việt Nam. Những tác phẩm như Thơ thơ (1938) hay Gửi hương cho gió (1945) thể hiện rõ nét giọng điệu sôi nổi, táo bạo, chan chứa tình yêu và khát khao tận hưởng vẻ đẹp cuộc sống.
Sau năm 1945, Xuân Diệu chuyển hướng sáng tác, hòa mình vào dòng chảy cách mạng, ca ngợi quê hương, đất nước và con người lao động. Dù ở giai đoạn nào, thơ ông vẫn giữ nguyên vẹn sự say mê và rung động sâu sắc. Những tác phẩm như Riêng chung (1960) hay Hai đợt sóng (1967) tiếp tục khẳng định vị trí của ông trên thi đàn.
Không chỉ là nhà thơ, Xuân Diệu còn là nhà văn, nhà phê bình có ảnh hưởng lớn. Năm 1996, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật, ghi nhận những đóng góp to lớn của mình.
Xuân Diệu vẫn mãi là biểu tượng của thơ tình Việt Nam, là tiếng nói tha thiết của một tâm hồn luôn khát khao yêu và sống trọn vẹn từng khoảnh khắc:
“Hãy tận hưởng ngày giờ đang thở,
Và yêu đời, hãy sống mạnh hơn tôi.”
Viên Ngọc Quý