Tôi là con chim đến từ núi lạ,
Ngứa cổ hát chơi.
Khi gió sớm vào reo um khóm lá,
Khi trăng khuya lên ủ mộng xanh trời.
Chim ngậm suối đậu trên cành bịn rịn,
Kêu tự nhiên, nào biết bởi sao ca.
Tiếng to nhỏ chẳng xui chùm trái chín;
Khúc huy hoàng không giúp nở bông hoa.
Hát vô ích, thế mà chim vỡ cổ,
Héo tim xanh cho quá độ tài tình.
Ca ánh sáng bao lần dây máu đỏ,
Rồi một ngày sa rụng giữa bình minh.
Tôi réo rắt, chẳng qua trời bắt vậy.
Chiếc thuyền lòng, nước đẩy phải trôi theo.
Gió đã thổi, cho nên buồn phải dậy;
Hồn vu vơ, tội ấy ở mây đèo!
Nghiệp tài tử nghìn xưa đông lắm chắc;
Chúng tôi hùn làm một kiếp đa duyên
Cảm nếp trán của người lo sáu khắc,
Thương năm canh nước mắt những ai phiền.
Nghề lựa chữ, thôi một trò trẻ nhỏ!
Dăm câu vui đắp đối với câu sầu;
Sương với bóng, không có gì tỏ rõ;
Xin đừng cười! đời có nghĩa chi đâu?
Tiếng tôi hát chẳng làm ai tươi nở,
Nhưng sách nầy, tôi để cả trái tim;
Giở cho khéo, kẻo lòng tôi động vỡ,
Hồn người tình mỏng lắm, xếp cho êm!
Nắng cũ phai rồi, lòng tôi vẫn cất
Một chiều ong vàng đẹp sắc năm mây.
Xuân vội bước, nhưng mà hương chẳng mất:
Tôi với tay giam giữ ở trong nầy.
Nếu trang giấy có động mình tuyết bạch,
Ấy là tôi dào dạt với âm thanh.
Hồn thắc mắc vẫn đi về với sách,
Dưới tay ai xem lại nỗi lòng mình.
Vâng, đáng lẽ làm xong tôi giữ lấy;
Vui gì đâu mà đưa đẩy dương tranh,
Nhưng, cũng lạ! nỗi tình đau khổ ấy,
Để riêng tây, như có chỗ không đành.
Thôi thì đó, nói cùng nhau cho thoả.
Ai có thương thì tôi cũng cảm ơn,
Ai có ghét, tôi cũng cười khuây khoả;
Lỗi vì tôi, tôi đâu dám giận hờn.
Nhưng nghĩ lại: sống vẫn là hơn chết;
Gần hơn xa; yêu mến ngọt ngào thay!
Nên, thú thật, tôi mong nhiều kẻ biết
Xem nhiều thơ và nhớ lại nhiều ngày.
Và nghĩ ngợi: “Ai mà ai oán thế!
Ở nơi đâu mà giọng nói tiêu tao!”
Thưa, một kiếp ai không từng nhỏ lệ?
Ta cùng buồn: mơn trớn vuốt ve nao!
Và hãy yêu tôi, một giờ cũng đủ,
Một giây cũng cam, một chút cũng đành;
Khổ tôi hát, loài người xin chớ phụ!
Cô hay dịu dàng; chầm chậm, thưa anh!
Thơ tôi đó, gió lùa đem toả khắp!
Và lòng tôi, mời mọc bạn chia nhau.
Trông thấy nghìn môi rượu mùa ăm ắp,
Tôi sẽ vui được có tấm lòng sầu.
Tôi là con chim đến từ núi lạ,
Ngửa cổ hát chơi;
Hãy nghe lấy. Còn như sao rỉ rả,
Hỏi làm chi! Tôi không biết trả lời.
*
Lời Tâm Tình Của Một Kẻ Si Thơ
Trong thế giới thơ Xuân Diệu, ta luôn bắt gặp một tâm hồn mãnh liệt, cháy bỏng với cuộc đời, nhưng cũng đầy cô đơn và khắc khoải. Lời thơ vào tập Gửi hương là một bài thơ vừa như lời tự bạch, vừa như lời mời gọi tha thiết của thi nhân dành cho độc giả. Đọc bài thơ, ta không chỉ cảm nhận được nỗi niềm của một tâm hồn tài hoa mà còn thấy rõ triết lý sống và nghệ thuật của một kẻ si thơ, kẻ đã nguyện dâng hiến cả trái tim mình cho từng con chữ.
Thi nhân – kẻ lữ hành cô độc trên con đường chữ nghĩa
“Tôi là con chim đến từ núi lạ,
Ngửa cổ hát chơi.”
Hình ảnh “con chim đến từ núi lạ” gợi lên một cảm giác cô đơn, lẻ loi giữa thế gian. Xuân Diệu tự ví mình như loài chim tự do, ca hát không phải vì muốn được ai lắng nghe hay tán thưởng, mà đơn thuần chỉ vì đó là bản năng, là định mệnh. Thơ với ông không phải là một sự lựa chọn, mà là một tiếng gọi từ sâu thẳm tâm hồn, một khát khao cất lời giữa cuộc đời đầy trăn trở.
Nhưng tiếng hát ấy không phải là một bản nhạc vui tươi. Nó chứa đựng nỗi đau của một kẻ sống hết mình nhưng lại luôn cảm thấy lạc lõng giữa đời:
“Hát vô ích, thế mà chim vỡ cổ,
Héo tim xanh cho quá độ tài tình.”
Những câu thơ như một tiếng thở dài của người nghệ sĩ, người sẵn sàng hy sinh bản thân vì nghệ thuật, nhưng rồi nhận ra rằng lời thơ ấy chẳng thể thay đổi được điều gì. Dù có thổn thức đến mấy, thơ ca cũng chẳng làm cho “chùm trái chín”, chẳng khiến “bông hoa nở”.
Cái nghiệp của kẻ đa cảm và trái tim mong manh
Xuân Diệu luôn tự nhận mình là một người đa cảm, một kẻ luôn bị xúc động bởi những gì nhỏ nhặt nhất của cuộc đời. Ông hát lên những nỗi buồn không chỉ cho riêng mình mà còn cho tất cả những ai đã từng khắc khoải, từng phiền muộn:
“Cảm nếp trán của người lo sáu khắc,
Thương năm canh nước mắt những ai phiền.”
Bởi thế, thơ của ông là tiếng lòng chung của nhân gian, của những trái tim từng rung động trước những đau thương của cuộc đời. Nhưng dù biết mình chỉ là kẻ “lựa chữ”, dệt nên những vần thơ vô định, ông vẫn đặt trọn trái tim mình vào đó:
“Tiếng tôi hát chẳng làm ai tươi nở,
Nhưng sách này, tôi để cả trái tim.”
Từng trang thơ, từng con chữ của Xuân Diệu đều thấm đẫm nỗi lòng. Ông lo sợ người đọc sẽ làm vỡ đi những xúc cảm mong manh mà mình đã gửi gắm. Ông hiểu rằng, trái tim người nghệ sĩ vốn mỏng manh, và một khi đã tổn thương, nó sẽ vỡ vụn thành những mảnh không sao hàn gắn được.
Sự giằng xé giữa khao khát được lắng nghe và nỗi buồn của sự lẻ loi
Dẫu biết rằng sáng tạo nghệ thuật là một hành trình cô độc, Xuân Diệu vẫn không giấu được khát vọng được sẻ chia, được đồng cảm. Ông thừa nhận mình đã định giữ lại thơ cho riêng mình, nhưng lại không thể cưỡng lại mong muốn gửi gắm tâm hồn mình đến với người khác:
“Vâng, đáng lẽ làm xong tôi giữ lấy;
Vui gì đâu mà đưa đẩy dương tranh,
Nhưng, cũng lạ! nỗi tình đau khổ ấy,
Để riêng tây, như có chỗ không đành.”
Chính sự mâu thuẫn này làm nên một Xuân Diệu rất con người – vừa khép kín, vừa cởi mở, vừa cô đơn, vừa khao khát được yêu thương. Ông không mong cầu sự tán dương, chỉ cần một chút thấu hiểu, một chút cảm thông cũng đã đủ để trái tim ông dịu lại.
“Và hãy yêu tôi, một giờ cũng đủ,
Một giây cũng cam, một chút cũng đành.”
Đây không chỉ là lời mời gọi dành cho thơ ông, mà còn là lời cầu xin của một kẻ yêu tha thiết nhưng luôn sợ hãi sự lãng quên. Xuân Diệu biết mình là kẻ quá đa cảm, nhưng ông cũng tin rằng đâu đó trên cõi đời này, sẽ có những tâm hồn đồng điệu với mình.
Lời kết – Thơ ca như một tiếng chim trong đêm
Bài thơ khép lại bằng hình ảnh con chim lạ vẫn cứ hát, dù chẳng ai hiểu vì sao:
“Tôi là con chim đến từ núi lạ,
Ngửa cổ hát chơi;
Hãy nghe lấy. Còn như sao rỉ rả,
Hỏi làm chi! Tôi không biết trả lời.”
Câu kết mang một chút bâng khuâng, một chút bất lực, nhưng cũng đầy kiêu hãnh. Xuân Diệu không cần giải thích vì sao mình làm thơ, bởi lẽ đó là một điều tự nhiên như tiếng chim hót, như gió thổi, như mây trôi. Ông chỉ mong rằng ai đó sẽ lắng nghe, dù chỉ trong một khoảnh khắc.
Lời thơ vào tập Gửi hương không chỉ là lời mở đầu cho một tập thơ, mà còn là một tuyên ngôn về nghệ thuật và cuộc đời của Xuân Diệu. Đó là tiếng hát của một tâm hồn say đắm, một trái tim tràn đầy yêu thương nhưng cũng lắm khổ đau. Và trong những vần thơ ấy, ta không chỉ thấy một Xuân Diệu tài hoa, mà còn thấy chính mình – những kẻ cũng từng một lần xao động trước những buồn vui của cuộc đời.
Xuân Diệu – “Ông hoàng thơ tình” của văn học Việt Nam
Xuân Diệu (1916–1985), tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu, là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của nền văn học hiện đại Việt Nam. Với phong cách sáng tác độc đáo, giàu cảm xúc và khát vọng yêu đời mãnh liệt, ông đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bao thế hệ độc giả.
Sinh ra tại Hà Tĩnh nhưng lớn lên ở Quy Nhơn, Bình Định, Xuân Diệu sớm bộc lộ niềm đam mê văn chương. Ông là gương mặt tiêu biểu của phong trào Thơ Mới, mang đến một luồng sinh khí mới cho thi ca Việt Nam. Những tác phẩm như Thơ thơ (1938) hay Gửi hương cho gió (1945) thể hiện rõ nét giọng điệu sôi nổi, táo bạo, chan chứa tình yêu và khát khao tận hưởng vẻ đẹp cuộc sống.
Sau năm 1945, Xuân Diệu chuyển hướng sáng tác, hòa mình vào dòng chảy cách mạng, ca ngợi quê hương, đất nước và con người lao động. Dù ở giai đoạn nào, thơ ông vẫn giữ nguyên vẹn sự say mê và rung động sâu sắc. Những tác phẩm như Riêng chung (1960) hay Hai đợt sóng (1967) tiếp tục khẳng định vị trí của ông trên thi đàn.
Không chỉ là nhà thơ, Xuân Diệu còn là nhà văn, nhà phê bình có ảnh hưởng lớn. Năm 1996, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật, ghi nhận những đóng góp to lớn của mình.
Xuân Diệu vẫn mãi là biểu tượng của thơ tình Việt Nam, là tiếng nói tha thiết của một tâm hồn luôn khát khao yêu và sống trọn vẹn từng khoảnh khắc:
“Hãy tận hưởng ngày giờ đang thở,
Và yêu đời, hãy sống mạnh hơn tôi.”
Viên Ngọc Quý