Cảm nhận bài thơ: Mã Pí Lèng

Mã Pí Lèng

 

Làm đường Đồng Văn – Mèo Vạc

Tỉnh Hà Giang đã làm xong đường Hà Giang – Đồng Văn, đặt tên là đường Hạnh Phúc, nay đang làm nối theo đến huyện Mèo Vạc. Đoạn đường mới cũng rất gay go, nhất là ở chặng Mã Pí Lèng (nghĩa là Sống mũi ngựa).


MÃ PÍ LÈNG, danh bất hư truyền:
Sống mũi ngựa, núi cao thẳng đứng.
Núi điệp trùng núi toả bốn bên,
Đá gan trâu gãy choòng đá cứng.
Sương mù dưới vực vút bay lên,
Bạc lẩn màu cây mờ đỉnh dựng!

Yêu đời, họ muốn rộng yêu thương,
Họ muốn treo đường vào vách núi,
Muốn nhằm Mèo Vạc cưỡi xe nhanh,
Sợ bản Mèo xa chờ đợi muối;
Nên tới Đồng Văn, thắng lớn rồi,
Họ lại mở đường, còn tiến tới.

Đường đi bao chặng núi non ghen,
Bậc nhất cheo leo Mã Pí Lèng!
Lối cũ ngựa thồ đường tức ngực,
Mười một chữ chi quanh quất liền!
Được một đoạn bằng chưa kịp thở,
Mười một chữ chi quần, lại lên!

Từ năm chục thước cao, ta bửa,
Búa đập xuống choòng, choòng nẩy lửa,
Vạt núi đi như mũ ông công,
Như khẩu mía bổ làm hai nửa,
Tạo cho đường mới hiện ra dần,
Phẳng tựa bàn tay ta mở ngửa!

Yếu tim, mắt kém, đương sao nổi,
Trên đã cao vời, dưới lại thâm!
Đá nhỏ mới rơi còn lộp bộp,
Sau lôi đá lớn đổ rầm rầm.
Tuột thôi lăn xuống hàng trăm thước,
Cây bốn người ôm cũng vụn tăm!

Lên tận cao nguyên, nước đã gay!
Uống còn thiếu nữa rửa chân tay.
Mỗi người địu cát sông Nho Quế
Lên được mười cân hết một ngày,
Với địu xi măng xây chiếc bể,
Chứa mưa, dùng xẻn, tạm vần xoay.

Đầu năm cái rét tê cong chiếu!
Vừa Hải Dương lên, chăn hãy thiếu.
Mới nằm với cũ sẻ san hơi,
Đốt lửa giữa nhà khuya dọi chiếu.
– Ở đây mù đặc, buốt sương sa,
Hiếm củi, khan rừng, cần tính liệu! –

Muôn nghìn gian khó, có thanh niên!
Nam Định, Thái Bình, Cao, Lạng, Tuyên,
Họ đến đo vai cùng vách núi:
Sợ gì! Mình có thẻ Đoàn viên.
Nịt thắt lưng da, choòng búa sẵn,
Buộc mình vào núi, họ leo lên.

Dốc như thành vại không nơi bám,
Riêng tuyển đội “Thanh niên Dũng cảm”
Tạo một đường lửng trên sườn non,
Lấy chỗ đặt chân rồi lấn, hãm,
Đục đá, tra mìn, đốt – chạy mìn,
Trên trán mồ hôi còn lấm tấm.

Đá nửa hoa cương rắn lắm thay!
Mẻ choòng ta lại chữa rèn ngay.
Đôi găng đá sắc đâm cho toạc,
Trong lộn ra ngoài, lại đổi tay.
Nhưng hoa mắt ánh, hoa môi nở,
Bất kể mưa thưa hoặc nắng dày!

Núi ngàn năm dậy bước thanh niên,
Đêm lán đỏ đèn vang tiếng hát.
Đẹp thay chàng trẻ đứng in trời,
Đôi cánh tay cao giang búa sắt!
Vui khi mìn nổ tiếp theo nhau,
Trăm phát chào mừng rền đại bác.

Chị Giàng đục đá hơn nam giới,
Anh Quốc trung kiên, cán bộ mình.
Từ những tấm lòng như lửa mới
Mà đường Hạnh Phúc mở thênh thênh.
– Đến nơi Mèo Vạc, ta trông lại
Mã Pí Lèng ơi, ngọn vút xanh!


Hà Giang, 20-7-1964

*

Mã Pí Lèng – Khúc Tráng Ca Trên Vách Núi

Đã từ lâu, Mã Pí Lèng không chỉ là một địa danh trên cao nguyên đá Hà Giang mà còn là biểu tượng của ý chí, của khát vọng chinh phục thiên nhiên của con người. Trong bài thơ Mã Pí Lèng, Xuân Diệu đã khắc họa một cách sống động hành trình mở đường trên vách núi cheo leo – nơi sự sống từng phải chật vật bám víu vào đá, nơi những bàn tay người thanh niên dám đục núi, khoét sâu vào lòng đất để tạo ra con đường của ánh sáng.

Chinh Phục Thiên Nhiên – Khát Vọng Vượt Núi Cao

MÃ PÍ LÈNG, danh bất hư truyền:
Sống mũi ngựa, núi cao thẳng đứng.

Ngay từ những câu đầu tiên, Xuân Diệu đã khắc họa một Mã Pí Lèng hùng vĩ, hiểm trở. “Sống mũi ngựa” – cái tên gợi lên hình ảnh một con đường chênh vênh, dốc đứng, nơi mà thiên nhiên dường như muốn thách thức con người. Những dãy núi điệp trùng, đá cứng gan trâu, sương mù lẩn khuất, tất cả tạo nên một bức tranh vừa dữ dội, vừa bí ẩn.

Nhưng, trước thiên nhiên khắc nghiệt ấy, con người không chùn bước.

Yêu đời, họ muốn rộng yêu thương,
Họ muốn treo đường vào vách núi,
Muốn nhằm Mèo Vạc cưỡi xe nhanh,
Sợ bản Mèo xa chờ đợi muối;

Những người thanh niên mở đường không chỉ đơn thuần chinh phục thiên nhiên, mà còn mang theo một khát vọng cao cả: kết nối những vùng đất xa xôi, mang lại hơi thở của cuộc sống cho những bản làng cách trở. Tình yêu thương chính là động lực để họ “treo đường vào vách núi”, để bạt đá, mở ra một lối đi trên lưng trời.

Gian Nan Đổ Xuống Đôi Tay Người Thanh Niên

Lối cũ ngựa thồ đường tức ngực,
Mười một chữ chi quanh quất liền!

Hành trình mở đường không chỉ là một câu chuyện về sức mạnh, mà còn là thử thách về lòng kiên trì. Đường cũ chỉ vừa đủ cho ngựa thồ đi, quanh co, nghẹt thở. Nhưng con đường mới không thể như vậy. Phải đục núi, phải bạt đá, phải mở ra một lối đi thênh thang hơn, bằng chính đôi tay và khối óc con người.

Từ năm chục thước cao, ta bửa,
Búa đập xuống choòng, choòng nẩy lửa,
Vạt núi đi như mũ ông công,
Như khẩu mía bổ làm hai nửa,

Hình ảnh những thanh niên bửa núi, chẻ đá hiện lên thật oai hùng. Họ không chỉ chiến đấu với độ cao, với vực sâu, mà còn đối mặt với sự cứng rắn của từng thớ đá. Mỗi nhát búa vang lên là một mảnh núi bị chẻ đôi, là từng đoạn đường dần hiện ra giữa đất trời.

Nhưng mở đường không chỉ gian nan ở sự hiểm trở, mà còn ở những thiếu thốn trăm bề:

Uống còn thiếu nữa rửa chân tay.
Mỗi người địu cát sông Nho Quế
Lên được mười cân hết một ngày,

Khát nước, thiếu thốn lương thực, phải tự địu cát, tự mang xi măng lên núi để dựng nên những bể chứa nước mưa – mỗi công việc đều đòi hỏi sự bền bỉ, dẻo dai đến phi thường. Nhưng họ vẫn không lùi bước.

Ý Chí Của Những Người Mở Đường

Muôn nghìn gian khó, có thanh niên!
Nam Định, Thái Bình, Cao, Lạng, Tuyên,

Những người trẻ từ khắp mọi miền đất nước tụ hội về đây, không quản ngại gian lao. Trên vách núi cheo leo ấy, họ không chỉ đang mở đường, mà còn đang chứng minh sức mạnh của tuổi trẻ, của tinh thần đoàn kết.

Dốc như thành vại không nơi bám,
Riêng tuyển đội “Thanh niên Dũng cảm”

Trước những đoạn đường nguy hiểm nhất, họ không chùn bước. Những đội “Thanh niên Dũng cảm” là những người đầu tiên bám vách núi, đục đá để mở lối đi cho đồng đội phía sau. Mồ hôi nhỏ xuống đá, ánh lửa hàn loang loáng trong đêm, từng mũi khoan xuyên vào lòng núi như khẳng định một quyết tâm không thể lay chuyển.

Mùa Xuân Của Những Con Đường

Núi ngàn năm dậy bước thanh niên,
Đêm lán đỏ đèn vang tiếng hát.

Dù gian khó, những người mở đường vẫn mang trong tim ngọn lửa của niềm tin và khát vọng. Họ không chỉ dựng lên một con đường, mà còn dựng lên một bức tượng đài bất tử về sức trẻ, về lòng yêu nước, về tinh thần không khuất phục trước thiên nhiên.

Đẹp thay chàng trẻ đứng in trời,
Đôi cánh tay cao giang búa sắt!

Hình ảnh những chàng trai vung búa trên nền trời cao, giữa núi non hùng vĩ, không chỉ là biểu tượng của sức mạnh lao động, mà còn là hình ảnh của những con người đang xây dựng tương lai.

Và khi con đường hoàn thành, khi những chiếc xe bon bon chạy trên vách núi, những người mở đường lại ngoái nhìn về phía sau:

Đến nơi Mèo Vạc, ta trông lại
Mã Pí Lèng ơi, ngọn vút xanh!

Đó là ánh mắt của niềm tự hào, của sự viên mãn. Những vách núi từng là trở ngại giờ đây đã trở thành con đường nối liền các bản làng, mang lại hạnh phúc cho biết bao con người.

Lời Kết

Bài thơ Mã Pí Lèng không chỉ là một bài ca về sự chinh phục thiên nhiên, mà còn là khúc tráng ca về tinh thần lao động của con người Việt Nam. Đó là câu chuyện của những bàn tay bạt núi, những giọt mồ hôi hòa vào đá, những con người dám đặt chân đến những nơi hiểm trở nhất để mở đường cho cuộc sống.

Hôm nay, khi đứng trên đỉnh Mã Pí Lèng, ngắm nhìn con đường Hạnh Phúc uốn lượn giữa trời xanh, ta không chỉ thấy vẻ đẹp của thiên nhiên, mà còn cảm nhận được dấu ấn của những con người năm xưa. Họ đã đi, đã sống, đã hiến dâng cả tuổi trẻ để vẽ nên một con đường – con đường của ý chí, của lòng yêu nước và của những trái tim không bao giờ khuất phục.

*

Xuân Diệu – “Ông hoàng thơ tình” của văn học Việt Nam

Xuân Diệu (1916–1985), tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu, là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của nền văn học hiện đại Việt Nam. Với phong cách sáng tác độc đáo, giàu cảm xúc và khát vọng yêu đời mãnh liệt, ông đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bao thế hệ độc giả.

Sinh ra tại Hà Tĩnh nhưng lớn lên ở Quy Nhơn, Bình Định, Xuân Diệu sớm bộc lộ niềm đam mê văn chương. Ông là gương mặt tiêu biểu của phong trào Thơ Mới, mang đến một luồng sinh khí mới cho thi ca Việt Nam. Những tác phẩm như Thơ thơ (1938) hay Gửi hương cho gió (1945) thể hiện rõ nét giọng điệu sôi nổi, táo bạo, chan chứa tình yêu và khát khao tận hưởng vẻ đẹp cuộc sống.

Sau năm 1945, Xuân Diệu chuyển hướng sáng tác, hòa mình vào dòng chảy cách mạng, ca ngợi quê hương, đất nước và con người lao động. Dù ở giai đoạn nào, thơ ông vẫn giữ nguyên vẹn sự say mê và rung động sâu sắc. Những tác phẩm như Riêng chung (1960) hay Hai đợt sóng (1967) tiếp tục khẳng định vị trí của ông trên thi đàn.

Không chỉ là nhà thơ, Xuân Diệu còn là nhà văn, nhà phê bình có ảnh hưởng lớn. Năm 1996, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật, ghi nhận những đóng góp to lớn của mình.

Xuân Diệu vẫn mãi là biểu tượng của thơ tình Việt Nam, là tiếng nói tha thiết của một tâm hồn luôn khát khao yêu và sống trọn vẹn từng khoảnh khắc:

“Hãy tận hưởng ngày giờ đang thở,
Và yêu đời, hãy sống mạnh hơn tôi.”

Viên Ngọc Quý

Bạn có thể chia sẻ bài viết qua:

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *