Nằm bệnh viện
Đêm khuya mê tỉnh bàng hoàng,
Dường như ai ở bên màn với tôi…
Ngực đau, trán vã mồ hôi,
Ngọn đèn con đã chăm soi đến gần;
Tay người lau trán, đắp chăn,
Khẽ như sợ động tinh thần người mê.
Còn ai rên rỉ đêm khuya,
Ngọn đèn con lại lần đi thăm chừng…
Ngoài hiên đêm tối mấy từng,
Sương đông xuống lạnh; vang rừng dế kêu;
Nhưng lòng êm biết bao nhiêu
Như, đau, nằm giữa tình yêu ấm, dày.
Đó là những bàn tay hộ lý
Y tá và bác sĩ chăm nom;
Chiều chiều, sớm sớm, hôm hôm,
Cưu mang lòng mẹ thương con khác nào.
Khiến cho tình cảm dạt dào.
Cơm quên đắng miệng, thuốc vào mát da.
*
* *
Nhà thương đế quốc lập ra,
Rễ khinh là thịt, là da con người.
Nông dân đau ốm rụng rời,
Cửa nhà thương thí và nơi tủi sầu;
Cưa xương cắt thịt mặc dầu,
Giường đau lăn lộn, ai đâu xót tình!
Nay đất nước của mình làm chủ,
Bệnh viện dù tre nứa đơn sơ,
Rừng che bóng điểm lưa thưa,
Thuốc tuy san sẻ còn chưa đủ đầy,
Nhưng con người ở nơi đây
Quý hơn tất cả bạc này, vàng kia;
Chăm từ cơm cháo sớm khuya,
Chẳng kiêng nhẹ, nặng; không nề sạch, dơ.
Mười năm lòng của Cụ Hồ
Đức mênh mông thấm dần vô mọi lòng,
Dạy người phục vụ gắng công,
Dạy người ốm cũng thấy hồng đời vui.
*
* *
Nơi thuở trước ngậm ngùi chua xót
Nay sáng trong, đẹp tốt, hiền hoà:
Tươi cười bệnh viện bước ra,
Mến yêu Dân chủ Cộng hoà Việt Nam!
1954-55
*
Giữa Cơn Đau, Tình Người Lại Sáng
Bệnh tật, trong những ngày tháng khó khăn của đất nước, không chỉ là nỗi đau thể xác mà còn là thử thách tinh thần. Nhưng giữa không gian bệnh viện, giữa những cơn mê tỉnh bàng hoàng, Xuân Diệu lại tìm thấy một điều lớn lao hơn nỗi đau – đó là tình yêu thương, là sự chăm sóc tận tụy, là tinh thần nhân văn của chế độ mới. Nằm bệnh viện không chỉ là bài thơ về một người bệnh mà còn là bức tranh đối lập giữa hai thời kỳ, giữa sự tàn nhẫn của chế độ cũ và tình người ấm áp trong một xã hội do chính nhân dân làm chủ.
Tình yêu thương giữa đêm khuya
Mở đầu bài thơ là một khung cảnh quen thuộc với những ai từng trải qua cơn ốm đau:
“Đêm khuya mê tỉnh bàng hoàng,
Dường như ai ở bên màn với tôi…”
Sự cô đơn của người bệnh dường như bị xua tan bởi những bàn tay chăm sóc, bởi ánh đèn nhỏ kiên nhẫn dõi theo. Nhà thơ cảm nhận rõ sự dịu dàng, tận tụy của người hộ lý, y tá:
“Tay người lau trán, đắp chăn,
Khẽ như sợ động tinh thần người mê.”
Giữa đêm tối, khi ngoài hiên sương lạnh buông xuống, trong bệnh viện lại chan chứa hơi ấm của tình người. Những người chăm sóc không chỉ làm tròn bổn phận mà còn trao đi sự tận tâm, nâng niu bệnh nhân như một người mẹ chăm con. Tình cảm ấy khiến cho nỗi đau dịu lại, biến giường bệnh thành nơi của sự yêu thương chứ không phải sự cô độc.
Sự đối lập giữa hai chế độ
Nhưng không phải lúc nào bệnh viện cũng là nơi tràn đầy nhân văn như thế. Xuân Diệu nhắc lại những ngày tháng dưới chế độ cũ:
“Nhà thương đế quốc lập ra,
Rễ khinh là thịt, là da con người.”
Bệnh viện khi ấy không phải là chốn chữa bệnh mà là nơi của sự phân biệt, của tủi sầu. Người nghèo vào bệnh viện không phải để được cứu chữa mà chỉ để chịu đựng. Những câu thơ của Xuân Diệu không chỉ là sự tố cáo mà còn là nỗi đau xót khi con người bị xem như công cụ, như một phần của bộ máy chứ không phải những cá thể đáng được yêu thương.
Nhưng giờ đây, khi đất nước được làm chủ, bệnh viện dù còn đơn sơ, thuốc men còn thiếu thốn, nhưng con người lại trở thành điều quan trọng nhất.
“Nhưng con người ở nơi đây
Quý hơn tất cả bạc này, vàng kia;”
Sự thay đổi ấy đến từ tư tưởng của Hồ Chí Minh, từ một xã hội mà ở đó, sự sống và sức khỏe của nhân dân được đặt lên hàng đầu. Người bác sĩ không còn là kẻ nắm quyền sinh sát, mà là người đồng hành, người chữa lành cả thể xác lẫn tinh thần.
Từ nỗi đau đến niềm tin vào tương lai
Những bệnh nhân ngày hôm qua còn chịu cảnh đắng cay, nay bước ra từ bệnh viện với niềm tin mới, với nụ cười tươi sáng.
“Tươi cười bệnh viện bước ra,
Mến yêu Dân chủ Cộng hoà Việt Nam!”
Bệnh viện không chỉ chữa lành bệnh tật, mà còn chữa lành cả tâm hồn, mang lại hy vọng cho những con người từng chịu khổ đau. Chính điều đó làm nên sự khác biệt lớn lao giữa hai thời đại.
Lời kết
Bài thơ Nằm bệnh viện không chỉ là những dòng viết về một trải nghiệm cá nhân của Xuân Diệu, mà còn là lời khẳng định về sự thay đổi mạnh mẽ của xã hội Việt Nam sau cách mạng. Từ nỗi đau cá nhân đến niềm vui tập thể, từ sự lạnh lùng của chế độ cũ đến sự ấm áp của xã hội mới, tất cả đã được thể hiện một cách sâu sắc qua từng câu chữ.
Bài thơ không chỉ ca ngợi những con người làm trong ngành y, mà còn là một lời tri ân dành cho cả một xã hội đã biết trân trọng con người, biết nâng niu từng sinh mệnh. Và hơn hết, bài thơ gieo vào lòng ta một niềm tin: dù trong đau đớn, con người vẫn có thể tìm thấy tình yêu thương và hy vọng.
*
Xuân Diệu – “Ông hoàng thơ tình” của văn học Việt Nam
Xuân Diệu (1916–1985), tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu, là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của nền văn học hiện đại Việt Nam. Với phong cách sáng tác độc đáo, giàu cảm xúc và khát vọng yêu đời mãnh liệt, ông đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bao thế hệ độc giả.
Sinh ra tại Hà Tĩnh nhưng lớn lên ở Quy Nhơn, Bình Định, Xuân Diệu sớm bộc lộ niềm đam mê văn chương. Ông là gương mặt tiêu biểu của phong trào Thơ Mới, mang đến một luồng sinh khí mới cho thi ca Việt Nam. Những tác phẩm như Thơ thơ (1938) hay Gửi hương cho gió (1945) thể hiện rõ nét giọng điệu sôi nổi, táo bạo, chan chứa tình yêu và khát khao tận hưởng vẻ đẹp cuộc sống.
Sau năm 1945, Xuân Diệu chuyển hướng sáng tác, hòa mình vào dòng chảy cách mạng, ca ngợi quê hương, đất nước và con người lao động. Dù ở giai đoạn nào, thơ ông vẫn giữ nguyên vẹn sự say mê và rung động sâu sắc. Những tác phẩm như Riêng chung (1960) hay Hai đợt sóng (1967) tiếp tục khẳng định vị trí của ông trên thi đàn.
Không chỉ là nhà thơ, Xuân Diệu còn là nhà văn, nhà phê bình có ảnh hưởng lớn. Năm 1996, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật, ghi nhận những đóng góp to lớn của mình.
Xuân Diệu vẫn mãi là biểu tượng của thơ tình Việt Nam, là tiếng nói tha thiết của một tâm hồn luôn khát khao yêu và sống trọn vẹn từng khoảnh khắc:
“Hãy tận hưởng ngày giờ đang thở,
Và yêu đời, hãy sống mạnh hơn tôi.”
Viên Ngọc Quý