Cảm nhận bài thơ: Những đêm hành quân – Xuân Diệu

Những đêm hành quân

 

Tôi cùng xương thịt với nhân dân của tôi,
Cùng đổ mồ hôi, cùng sôi giọt máu,
Tôi sống với cuộc đời chiến đấu
Của triệu người yêu dấu gian lao.

          *

Tôi đã đi hàng chục đêm sao,
Một chiếc xe – đạp vào băng bóng tối;
Cũng có lúc mây trời đen kịt lưới,
Cũng có tuần trăng mới, ánh trăng trong.
Đã mấy khi tôi thức với non sông,
Trọn những đêm ròng, mắt chong chân bước,
Đêm hành quân thả tâm hồn đi trước.
Yêu với căm, hai đợt sóng ào ào
Vỗ bên lòng, dội mãi tới trăng sao.
Giữa đêm tối, gần xa là biển mực.,
Chính là lúc trái tim càng sáng rực;
Khi mắt không nhìn được bốn thước xa
Chính là khi nghe cả núi sông nhà…
Tôi như đứa trẻ con đôi mắt khép
Sờ mặt mẹ trên ngón tay tha thiết;
Tôi hiểu hết đêm nay thôn xóm nghĩ gì,
Đằng chân trời ấp ủ những điều chi…

          *

Đã ngót năm, vẫn nhớ từng tấc đất
Là những tháng mưa bom căng thẳng nhất,
Khi giữa đường, nhờ đất để che thân,
Anh càng yêu đất nước gấp trăm lần.
Khi qua sông, trời bỗng dưng chóng sáng,
Máy bay giặc đằng xa như chớp nhoáng,
Bà mẹ đứng cao trên mạn chèo thuyền,
Mấy mươi người thành một chí cương kiên;
Khi những dấu tay bứng trồng còn mới
Trên hai hàng cây bên đường xanh tới
Ân cần lo nảy lá ẩn người qua
Khi hố bom vừa lấp suốt đêm qua
Đá còn thân dưới chân anh cảm động;
Khi mắt cháy nhìn những tường gạch rụng
Trại cụ già an dưỡng Ngã Ba Môi;
Khi những người phòng Quỳnh Lập đêm đời,
Những chân đau dưới trăng mờ lững thững…
Ôi! những tháng sống cùng Thanh Nghệ vững
Nước rào rào chảy vạn đập Đô Lương;
Đi dưới cà phê Đông Hiếu nông trường
Hoa trắng toát ngát thơm lừng mấy dặm;
Khuya mệt quá, thấy đường xa một chấm,
Những túp nhà cho chỗ ngủ, nơi ăn;
Những Cầu Đồi, cầu Hổ trong trăng
Đứng vững với cầu Hàm Rồng sắt thép;
Những Tĩnh Gia trở ra phà Ghép,
Những Quảng Tường, Quảng Tiến biển Sầm Sơn:
– Tôi cùng xương thịt với nhân dân của tôi,
Cùng đổ mồ hôi, cùng sôi giọt máu;
Tôi sống với cuộc đời chiến đấu
Của triệu người yêu dấu gian lao.


26-5-1966

*

Những Đêm Hành Quân – Trái Tim Rực Sáng Trong Đêm Tối

Có những đêm không chỉ là bóng tối và tĩnh lặng, mà là những bước chân không ngừng nghỉ, là những con đường hun hút xuyên qua gian lao, là những tâm hồn thao thức giữa đất trời. Những đêm hành quân của Xuân Diệu không chỉ là bài thơ về hành trình của một người lính trên những nẻo đường đất nước, mà còn là bài ca của lòng yêu nước, của sự hòa quyện giữa nhà thơ và nhân dân, giữa trái tim cá nhân và nhịp đập của cả dân tộc.

Nhà thơ – Người lính giữa lòng nhân dân

“Tôi cùng xương thịt với nhân dân của tôi,
Cùng đổ mồ hôi, cùng sôi giọt máu,
Tôi sống với cuộc đời chiến đấu
Của triệu người yêu dấu gian lao.”

Lời thơ cất lên như một lời thề son sắt: Xuân Diệu không chỉ là nhà thơ của tình yêu và mùa xuân, mà còn là nhà thơ của những bước hành quân, của những ngày tháng gắn bó cùng nhân dân trong cuộc chiến đấu vì đất nước. Không có ranh giới giữa nhà thơ và người lính, không có khoảng cách giữa nghệ sĩ và nhân dân – tất cả là một, cùng chung nhịp thở, chung mồ hôi, chung ý chí.

Những bước chân xuyên đêm – Trái tim thắp sáng non sông

“Tôi đã đi hàng chục đêm sao,
Một chiếc xe – đạp vào băng bóng tối…
Trọn những đêm ròng, mắt chong chân bước,
Đêm hành quân thả tâm hồn đi trước.”

Hành trình trong đêm không chỉ là hành trình thể xác, mà còn là hành trình của tâm hồn, của suy tư, của những cơn sóng cảm xúc vỗ trào trong lồng ngực. Khi ánh sáng bị bóng tối che phủ, cũng là lúc trái tim càng trở nên sáng rõ, lắng nghe từng nhịp đập của đất nước, từng hơi thở của quê hương.

“Khi mắt không nhìn được bốn thước xa
Chính là khi nghe cả núi sông nhà…”

Một hình ảnh thật đẹp và sâu sắc! Khi đôi mắt không còn nhìn thấy, ta lại cảm nhận rõ hơn bao giờ hết sự hiện diện của quê hương – như một đứa trẻ nhắm mắt sờ lên khuôn mặt mẹ mà thấu hiểu từng đường nét thân thương.

Nỗi nhớ gắn liền với từng tấc đất, từng con người

Không chỉ đi và cảm nhận, Xuân Diệu còn ghi sâu vào lòng từng hình ảnh, từng câu chuyện của nhân dân mà ông gặp gỡ trên đường hành quân. Những người mẹ, những cụ già, những bàn tay bứng trồng cây để che chở người lính, những cây cầu kiên cường giữa bom đạn – tất cả đều trở thành biểu tượng của sức mạnh và tình nghĩa quê hương.

“Anh càng yêu đất nước gấp trăm lần
Khi qua sông, trời bỗng dưng chóng sáng,
Máy bay giặc đằng xa như chớp nhoáng,
Bà mẹ đứng cao trên mạn chèo thuyền…”

Những hình ảnh ấy không chỉ đẹp mà còn là minh chứng cho tinh thần kiên cường của nhân dân. Họ không chỉ tồn tại, mà còn bất khuất vươn lên, sống, chiến đấu, và truyền đi ngọn lửa của lòng yêu nước.

Lời kết – Tình yêu quê hương mãi mãi không phai

Bài thơ khép lại bằng những câu lặp lại phần mở đầu – như một lời nhấn mạnh về sự hòa quyện không thể tách rời giữa nhà thơ và nhân dân.

“Tôi cùng xương thịt với nhân dân của tôi,
Cùng đổ mồ hôi, cùng sôi giọt máu;
Tôi sống với cuộc đời chiến đấu
Của triệu người yêu dấu gian lao.”

Những đêm hành quân không chỉ là bài thơ về một hành trình, mà là một bản tuyên ngôn của lòng yêu nước, của tinh thần gắn bó máu thịt với quê hương. Trong từng câu chữ, ta thấy không chỉ bóng dáng một nhà thơ, mà còn thấy một trái tim rực sáng giữa đêm tối, một tâm hồn thao thức cùng đất nước, cùng nhân dân, cùng những bước chân hành quân không bao giờ mỏi.

*

Xuân Diệu – “Ông hoàng thơ tình” của văn học Việt Nam

Xuân Diệu (1916–1985), tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu, là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của nền văn học hiện đại Việt Nam. Với phong cách sáng tác độc đáo, giàu cảm xúc và khát vọng yêu đời mãnh liệt, ông đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bao thế hệ độc giả.

Sinh ra tại Hà Tĩnh nhưng lớn lên ở Quy Nhơn, Bình Định, Xuân Diệu sớm bộc lộ niềm đam mê văn chương. Ông là gương mặt tiêu biểu của phong trào Thơ Mới, mang đến một luồng sinh khí mới cho thi ca Việt Nam. Những tác phẩm như Thơ thơ (1938) hay Gửi hương cho gió (1945) thể hiện rõ nét giọng điệu sôi nổi, táo bạo, chan chứa tình yêu và khát khao tận hưởng vẻ đẹp cuộc sống.

Sau năm 1945, Xuân Diệu chuyển hướng sáng tác, hòa mình vào dòng chảy cách mạng, ca ngợi quê hương, đất nước và con người lao động. Dù ở giai đoạn nào, thơ ông vẫn giữ nguyên vẹn sự say mê và rung động sâu sắc. Những tác phẩm như Riêng chung (1960) hay Hai đợt sóng (1967) tiếp tục khẳng định vị trí của ông trên thi đàn.

Không chỉ là nhà thơ, Xuân Diệu còn là nhà văn, nhà phê bình có ảnh hưởng lớn. Năm 1996, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật, ghi nhận những đóng góp to lớn của mình.

Xuân Diệu vẫn mãi là biểu tượng của thơ tình Việt Nam, là tiếng nói tha thiết của một tâm hồn luôn khát khao yêu và sống trọn vẹn từng khoảnh khắc:

“Hãy tận hưởng ngày giờ đang thở,
Và yêu đời, hãy sống mạnh hơn tôi.”

Viên Ngọc Quý

Bạn có thể chia sẻ bài viết qua:

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *