Cảm nhận bài thơ: Núi Ba Vì với Hồ Suối Hai

Núi Ba Vì với Hồ Suối Hai

 

Hồ Suối Hai ở chân núi Ba Vì, tỉnh Sơn Tây, là hồ chứa nước lớn nhất hiện nay ở miền Bắc (48 triệu thước khối), tưới cho 7.500 hécta vùng đồng mùa bắc Sơn Tây.

Một sớm mai Hồ Suối Hai thức dậy,
Chút ít sương tơ còn hãy mơ màng.
Gió hiu hiu thổi đến nhịp nhàng,
Nước gờn gợn lăn tăn. Mát quá.

Cao vút biếc, núi Ba Vì thong thả
In hình soi vào nước Hồ gương;
Ba Vì như đôi cánh phượng hoàng
Đang mở rộng bay lên. Hình chiếu xuống.

– Anh từ đỉnh lớn anh coi,
Nước gương hai mặt, anh soi mặt nào?
– Anh soi bên lựu bên đào,
Ngàn xưa anh vẫn soi vào Đà Giang,
Sông Đà phía trước hiên ngang,
Soi từ lập địa tạo thiên đến giờ;
Phía sau suối đổ, ai ngờ
Ngày nay anh bỗng soi Hồ Suối Hai!

Bạn bầu muôn thuở hôm mai:
Núi cao, hồ rộng, sông dài từ đây…

*

Biết bao công sức để nên Hồ!
Vì lúa, vì khoai, vì ấm no,
Vì áo trẻ con phơi sặc sỡ
Sau khi gặt tốt ruộng hai mùa,
Vì trái vườn xa muốn trĩu cành,
Mà ta chắn nước, lập hồ xanh!
Hai chòm suối ấy, nguồn sông Vật
Và nước triền cao dồn mông mênh…

Hơn hai trăm vạn thước khối đất
Xe chở, vai khiêng, đào lại đắp.
Năm nghìn thước khối đổ bê tông
Mới được vững, cao, dài chiếc đập.
Bên trong thoai thoải mặt tường nghiêng,
Chân đập cần ngăn nước thấm xuyên.
Phải gỡ đất mềm, thay đất sét
Rồi xây lát đá – nước trùm lên.
Hồ nghìn công mẫu trải thênh thang
Nước mở về nuôi những xóm làng;
Ruộng một dần lên ba vụ thóc,
Ba Vì lá thuốc nở vài gang.
Và những đồi quanh hoá đá ong
Bắt hơi nước ngấm, lại xanh trồng.
Hết những sình lầy, tan sốt rét
Hồ làm hạ mát, ấm trời đông.

*

Núi sông đã đẹp lắm thay!
Non hồ thêm một vẻ hay khác thường.
Hồ là mắt đắm soi gương,
Lại là nôi biếc ru vờn bóng non.
Nhẹ buông một chiếc thuyền con,
Chở anh cán bộ thành Sơn nghỉ hè;
Hồ xanh chân núi, trong ghê…
Nghỉ ngơi thêm sức, lại về cần lao.
Hồ tia trăm nẻo nước vào,
Chèo ta bơi giữa ngạt ngào thiên nhiên.
Cá hồ nuôi sẽ lớn lên,
Cây quanh hồ sẽ rườm chen, bóng lồng…

*

Nhân dân sáng tạo hồ trong
Mà cho trăm đỉnh ghen cùng Tản Viên.


30-11-1963

Suối Hai ở chân núi Ba Vì, là nguồn của sông Vật Lai.

*

Núi Ba Vì Và Hồ Suối Hai – Bản Hòa Ca Của Đất Trời Và Con Người

Có những nơi trên dải đất quê hương không chỉ đẹp bởi thiên nhiên hùng vĩ, mà còn đẹp bởi dấu ấn con người, bởi những giấc mơ lớn lao được dệt nên từ bàn tay lao động. Núi Ba Vì với Hồ Suối Hai của Xuân Diệu không chỉ là một bức tranh phong cảnh mà còn là một khúc tráng ca về sự hòa quyện giữa thiên nhiên và ý chí con người.

Sự Tĩnh Lặng Và Vĩ Đại Của Thiên Nhiên

Mở đầu bài thơ, Xuân Diệu vẽ lên một khung cảnh buổi sáng tĩnh lặng nơi Hồ Suối Hai:

Một sớm mai Hồ Suối Hai thức dậy,
Chút ít sương tơ còn hãy mơ màng.

Không gian ấy như đang chậm rãi mở mắt sau giấc ngủ đêm, bảng lảng trong hơi sương, yên ả và dịu dàng. Cảnh vật không ồn ào, vội vã mà mang một dáng vẻ thong dong, khoan thai, tựa như một bức tranh thủy mặc có núi cao in bóng xuống mặt hồ gương:

Cao vút biếc, núi Ba Vì thong thả
In hình soi vào nước Hồ gương.

Núi Ba Vì hiện lên vững chãi nhưng cũng đầy thơ mộng. Xuân Diệu không chỉ đơn thuần miêu tả cảnh vật, ông thổi vào đó linh hồn, khiến ngọn núi trở thành một cánh phượng hoàng đang dang rộng cánh bay:

Ba Vì như đôi cánh phượng hoàng
Đang mở rộng bay lên. Hình chiếu xuống.

Núi sừng sững, hồ lặng thinh, nhưng dưới ngòi bút Xuân Diệu, tất cả đều sống động, tràn trề sinh khí, mang một vẻ đẹp vừa kiêu hùng, vừa huyền ảo.

Hành Trình Mới Của Núi Sông

Ba Vì từ nghìn xưa vẫn soi bóng xuống dòng sông Đà hùng vĩ, nhưng giờ đây, nó có thêm một người bạn mới – Hồ Suối Hai:

Phía sau suối đổ, ai ngờ
Ngày nay anh bỗng soi Hồ Suối Hai!

Một sự thay đổi lớn lao của thiên nhiên, nhưng không phải do tạo hóa ngẫu nhiên sắp đặt, mà bởi chính bàn tay con người. Dòng sông vẫn chảy, núi vẫn cao, nhưng bên dưới, hồ nước nhân tạo đã hiện hữu, chứng tỏ sức mạnh cải tạo thiên nhiên của con người.

Bạn bầu muôn thuở hôm mai:
Núi cao, hồ rộng, sông dài từ đây…

Câu thơ không chỉ nói về sự gắn kết giữa sông, núi, hồ mà còn là sự hòa hợp giữa thiên nhiên và bàn tay con người, giữa vẻ đẹp vĩnh cửu và những dấu ấn của thời đại mới.

Dấu Ấn Lao Động – Sự Sáng Tạo Của Con Người

Hồ Suối Hai không phải một món quà vô tình mà thiên nhiên ban tặng, mà là kết quả của biết bao công sức, mồ hôi của những người lao động:

Biết bao công sức để nên Hồ!
Vì lúa, vì khoai, vì ấm no,

Hồ nước này không chỉ đơn thuần là một cảnh đẹp, mà còn là nguồn sống, là sự đảm bảo cho những vụ mùa bội thu, là tiếng cười trẻ con vang lên trong những ngày gặt hái:

Vì áo trẻ con phơi sặc sỡ
Sau khi gặt tốt ruộng hai mùa,

Xuân Diệu không chỉ nhìn hồ nước như một kỳ quan thiên nhiên mà ông còn thấy được giá trị thực tiễn của nó. Hồ không chỉ làm đẹp cho núi, mà còn làm tươi xanh những cánh đồng, biến những vùng đất cằn cỗi thành những miền quê trù phú:

Ruộng một dần lên ba vụ thóc,
Ba Vì lá thuốc nở vài gang.

Và không chỉ có đồng ruộng, ngay cả những vùng đất cằn sỏi đá cũng được hồi sinh:

Và những đồi quanh hoá đá ong
Bắt hơi nước ngấm, lại xanh trồng.

Dưới bàn tay con người, những vùng đất cằn cỗi không còn hoang vu, những nơi từng là sình lầy giờ đã trở thành màu mỡ. Hồ Suối Hai không chỉ mang nước mà còn mang lại một sức sống mới cho cả vùng đất.

Hồ Suối Hai – Nơi Nghỉ Ngơi Và Sức Sống Mới

Không chỉ là nơi phục vụ sản xuất, hồ còn là chốn nghỉ ngơi, là nơi con người tìm đến để tái tạo sức lao động:

Nhẹ buông một chiếc thuyền con,
Chở anh cán bộ thành Sơn nghỉ hè;

Hình ảnh con thuyền trôi lững lờ giữa mặt hồ xanh trong gợi lên một không gian bình yên, thư thái, nơi con người có thể hòa mình vào thiên nhiên, tìm lại sự thanh thản giữa cuộc sống bộn bề.

Và hồ không chỉ là nơi để ngắm cảnh, nó còn nuôi dưỡng tương lai:

Cá hồ nuôi sẽ lớn lên,
Cây quanh hồ sẽ rườm chen, bóng lồng…

Một lời khẳng định nhẹ nhàng nhưng chắc chắn rằng hồ sẽ còn tiếp tục mang lại lợi ích, rằng cuộc sống xung quanh nó sẽ ngày càng trù phú hơn.

Lời Kết – Khi Con Người Và Thiên Nhiên Hòa Làm Một

Bài thơ Núi Ba Vì với Hồ Suối Hai không chỉ ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn là một bản tráng ca về sức mạnh lao động của con người. Nếu như trước đây, con người ngợi ca thiên nhiên như một điều gì đó vĩnh hằng, bất biến, thì nay, họ đã trở thành một phần của nó, góp phần làm cho thiên nhiên thêm đẹp, thêm ý nghĩa.

Nhân dân sáng tạo hồ trong
Mà cho trăm đỉnh ghen cùng Tản Viên.

Xuân Diệu đã khéo léo kết lại bài thơ bằng một câu khẳng định: Hồ Suối Hai là minh chứng cho sự sáng tạo của con người, là niềm tự hào mà ngay cả những đỉnh núi cao chót vót cũng phải “ghen tị”. Đó là lời ca ngợi không chỉ dành cho một công trình, mà còn dành cho những con người đã góp công tạo dựng nó, dành cho những bàn tay đã biến thiên nhiên thành một bức tranh hài hòa giữa cái đẹp và cái hữu ích.

Và hôm nay, khi nhìn về Hồ Suối Hai, ta không chỉ thấy một mặt nước trong xanh phản chiếu bóng Ba Vì, mà còn thấy cả những giấc mơ, những nỗ lực, những con người đã từng ngày làm nên điều kỳ diệu ấy.

*

Xuân Diệu – “Ông hoàng thơ tình” của văn học Việt Nam

Xuân Diệu (1916–1985), tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu, là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của nền văn học hiện đại Việt Nam. Với phong cách sáng tác độc đáo, giàu cảm xúc và khát vọng yêu đời mãnh liệt, ông đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bao thế hệ độc giả.

Sinh ra tại Hà Tĩnh nhưng lớn lên ở Quy Nhơn, Bình Định, Xuân Diệu sớm bộc lộ niềm đam mê văn chương. Ông là gương mặt tiêu biểu của phong trào Thơ Mới, mang đến một luồng sinh khí mới cho thi ca Việt Nam. Những tác phẩm như Thơ thơ (1938) hay Gửi hương cho gió (1945) thể hiện rõ nét giọng điệu sôi nổi, táo bạo, chan chứa tình yêu và khát khao tận hưởng vẻ đẹp cuộc sống.

Sau năm 1945, Xuân Diệu chuyển hướng sáng tác, hòa mình vào dòng chảy cách mạng, ca ngợi quê hương, đất nước và con người lao động. Dù ở giai đoạn nào, thơ ông vẫn giữ nguyên vẹn sự say mê và rung động sâu sắc. Những tác phẩm như Riêng chung (1960) hay Hai đợt sóng (1967) tiếp tục khẳng định vị trí của ông trên thi đàn.

Không chỉ là nhà thơ, Xuân Diệu còn là nhà văn, nhà phê bình có ảnh hưởng lớn. Năm 1996, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật, ghi nhận những đóng góp to lớn của mình.

Xuân Diệu vẫn mãi là biểu tượng của thơ tình Việt Nam, là tiếng nói tha thiết của một tâm hồn luôn khát khao yêu và sống trọn vẹn từng khoảnh khắc:

“Hãy tận hưởng ngày giờ đang thở,
Và yêu đời, hãy sống mạnh hơn tôi.”

Viên Ngọc Quý

Bạn có thể chia sẻ bài viết qua:

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *