Ta chào Vôn ga – Đông
Ta chào Vôn ga – Đông.
Tiếng hoà bình mạnh mẽ.
Hai sông nối một giàng,
Năm biển cùng giao thông.
Ta chào Vôn ga – Đông,
Chào Liên Xô vĩ đại,
Đồng chí Stalin
Mặt trời soi nhân loại;
Ta chào mừng Đại Hội
Đảng Bônsơvich thành công.
Đế quốc càng tàn hung,
Ta càng hăng diệt nó,
Nó nuôi dịch hạch, thả vi trùng,
Ta thì đào nối Vôn ga – Đông.
Người ngăn sóng chuyển núi,
Ta cải tạo thiên nhiên;
Bể hiện giữa đất liền,
Sa mạc thành vườn tược.
Vôn ga – Đông sức nước
Bằng ngàn triệu tay làm.
Nước chảy thành ánh sáng,
Thành biển bông, bãi cỏ, rừng cam.
Đất nở dưới máy cày,
Điện sáng sao làng mạc,
Rừng xanh mới liền mây,
Đồng lúa chĩu nho say.
Ba mươi năm gắng công
Dựng cuộc đời Xô Viết.
Địch chui xuống đêm cùng,
Lòng ta bừng rạng đông!
Cửa sổ điện Kem linh
Đêm khuya đèn vẫn dọi.
Stalin suy nghĩ
Cho nhân loại hoà bình,
Cho người vui, vật ấm,
Mãi không còn chiến tranh;
Cho chim hoà, trái đậu,
Muôn sông êm trong nắng lượn mình.
Việt Nam trong khói lửa,
Gian nan quyết vững lòng,
Giặc phá kè, phá đập,
Cướp của ta từng giọt nước sông;
Trời hạn phải ra công
Đào giếng sâu tưới ruộng;
Cả đồng bào, bộ đội
Gánh nước đổ lên đồng;
Giọt nước: mồ hôi, máu,
Lại càng yêu dấu Vôn ga – Đông.
Vôn ga – Đông chan hoà
Là của bạn, của ta,
Thành công, ta sẽ có
Vôn ga – Đông của nhà.
Kháng chiến còn gian khổ.
Nhưng mở đường thắng lợi bao la.
Lòng tôi mừng rỡ Vôn ga
Sóng bằng trăm dặm đến hoà sông Đông.
Bước đầu Cộng sản kỳ công,
Sông Hồng Hà với Mê Kông cũng mừng.
10-1952
*
Vôn Ga – Đông: Biểu Tượng Của Khát Vọng Vươn Cao
Bài thơ Ta chào Vôn Ga – Đông của Xuân Diệu không chỉ là lời ngợi ca công trình vĩ đại của Liên Xô, mà còn là tiếng nói tự hào, là niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh lao động, sự cải tạo thiên nhiên và lý tưởng cộng sản. Từ hình ảnh dòng nước cuộn chảy của hai con sông Vôn Ga và Đông, nhà thơ mở ra một không gian rộng lớn, nơi con người làm chủ thiên nhiên và kiến thiết cuộc sống mới.
Vôn Ga – Đông không chỉ là một công trình thủy lợi khổng lồ, mà còn là biểu tượng cho sự kết nối, cho tinh thần đoàn kết giữa các dân tộc trên thế giới. Đó là hình ảnh của một thời đại mới, nơi con người không khuất phục trước thiên nhiên mà biết khai thác và biến nó thành nguồn sức mạnh cho cuộc sống:
“Người ngăn sóng chuyển núi,
Ta cải tạo thiên nhiên;
Bể hiện giữa đất liền,
Sa mạc thành vườn tược.”
Xuân Diệu ca ngợi sức lao động của con người, biến những vùng đất hoang vu thành đồng lúa, bãi cỏ, rừng cam. Dưới bàn tay con người, thiên nhiên không còn là thử thách mà trở thành người bạn đồng hành, tạo nên những thành tựu lớn lao.
Nhưng bên cạnh niềm hân hoan ấy, bài thơ còn phản ánh hiện thực đau thương của Việt Nam trong khói lửa chiến tranh. Khi đất nước còn chìm trong gian khó, từng giọt nước cũng trở thành quý giá. Giặc xâm lược không chỉ cướp đoạt ruộng đồng mà còn tàn phá từng con sông, từng bờ kè, ép nhân dân vào cảnh khốn cùng. Vì thế, hình ảnh Vôn Ga – Đông trong mắt nhà thơ không chỉ là một công trình vĩ đại của nhân loại mà còn là khát vọng, là hy vọng của chính dân tộc mình:
“Việt Nam trong khói lửa,
Gian nan quyết vững lòng,
Giặc phá kè, phá đập,
Cướp của ta từng giọt nước sông.”
Những câu thơ ấy vừa là nỗi đau, vừa là sự khẳng định ý chí bền bỉ của nhân dân Việt Nam. Trong hoàn cảnh khắc nghiệt, họ vẫn kiên trì lao động, vẫn mơ ước một ngày không xa, đất nước cũng có những công trình vĩ đại như Vôn Ga – Đông.
Từ dòng chảy Vôn Ga – Đông, Xuân Diệu vẽ nên bức tranh về một tương lai, nơi sông Hồng, sông Mê Kông của Việt Nam cũng sẽ tỏa sáng như hai dòng sông vĩ đại kia. Đó là niềm tin vào thắng lợi, vào con đường mà nhân dân đang đi:
“Bước đầu Cộng sản kỳ công,
Sông Hồng Hà với Mê Kông cũng mừng.”
Bài thơ Ta chào Vôn Ga – Đông không chỉ dừng lại ở việc ca ngợi một công trình vĩ đại của nhân loại mà còn thể hiện niềm tin sắt đá vào tương lai của đất nước. Một ngày nào đó, Việt Nam cũng sẽ có những Vôn Ga – Đông của riêng mình, cũng sẽ vươn lên mạnh mẽ bằng chính sức lao động và ý chí kiên cường của con người. Đó là lời khẳng định, là khát vọng, là ước mơ cháy bỏng của một dân tộc đang chiến đấu để giành lại hòa bình, tự do và hạnh phúc.
*
Xuân Diệu – “Ông hoàng thơ tình” của văn học Việt Nam
Xuân Diệu (1916–1985), tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu, là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của nền văn học hiện đại Việt Nam. Với phong cách sáng tác độc đáo, giàu cảm xúc và khát vọng yêu đời mãnh liệt, ông đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bao thế hệ độc giả.
Sinh ra tại Hà Tĩnh nhưng lớn lên ở Quy Nhơn, Bình Định, Xuân Diệu sớm bộc lộ niềm đam mê văn chương. Ông là gương mặt tiêu biểu của phong trào Thơ Mới, mang đến một luồng sinh khí mới cho thi ca Việt Nam. Những tác phẩm như Thơ thơ (1938) hay Gửi hương cho gió (1945) thể hiện rõ nét giọng điệu sôi nổi, táo bạo, chan chứa tình yêu và khát khao tận hưởng vẻ đẹp cuộc sống.
Sau năm 1945, Xuân Diệu chuyển hướng sáng tác, hòa mình vào dòng chảy cách mạng, ca ngợi quê hương, đất nước và con người lao động. Dù ở giai đoạn nào, thơ ông vẫn giữ nguyên vẹn sự say mê và rung động sâu sắc. Những tác phẩm như Riêng chung (1960) hay Hai đợt sóng (1967) tiếp tục khẳng định vị trí của ông trên thi đàn.
Không chỉ là nhà thơ, Xuân Diệu còn là nhà văn, nhà phê bình có ảnh hưởng lớn. Năm 1996, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật, ghi nhận những đóng góp to lớn của mình.
Xuân Diệu vẫn mãi là biểu tượng của thơ tình Việt Nam, là tiếng nói tha thiết của một tâm hồn luôn khát khao yêu và sống trọn vẹn từng khoảnh khắc:
“Hãy tận hưởng ngày giờ đang thở,
Và yêu đời, hãy sống mạnh hơn tôi.”
Viên Ngọc Quý