Cảm nhận bài thơ: Trở về – Xuân Diệu

Trở về

 

Cũng bởi vì tôi nhớ, tôi mong,
Một sớm mai hồng, tôi sẽ lên đường trở lại
Giữa vũ trụ nhân gian, trong gia đình xã hội
Giữa quốc gia nhân loại, trong thế giới gia đình,
Một sớm mai hồng, vắng một bình minh
Xanh mắt trẻ con,
Hồng môi thiếu nữ.

Tôi sẽ trở về, chân vui rón rén
Như hương đi những đêm xuân hò hẹn,
Như mắt yêu len lén,
Như tay vuốt quen quen;
Như đưa trẻ con nhay vú mẹ hiền,
Trong lòng đời tôi lại về náo động.

Bà mẹ đời du dương tay mở rộng,
Tôi nằm tròn làm một giọt sương hoa,
Hỏi cỏ cây: mình có nhớ thương ta?
Ta rất nhớ thương mình, nên trở lại.

– Vì đang sống, tôi vẫn còn sống mãi,
Vì còn yêu, tôi lại muốn yêu thêm;
Vì mắt tôi no đủ bóng ngày đêm,
Tai đẫy tiếng, hay môi mềm cảm giác,
Hôm nay vẫn nghĩ đèn đời bữa khác,
Như đứa con vừa bú mẹ một bên,
Một bên kia vẫn mơn vú mẹ hiền.

Tôi phải về vì quá đỗi yêu thương
Những con người làm bằng máu và xương
Vì thắc mắc sau khi mình đã chết,
Hội vui quá thế mà mình không biết.
Tôi lại về vì khúc nhạc sau đây
Đập vang trời, mời cả nước cùng mây.
Dù muốn ngủ, cũng thế nào ngủ được!
Như một sớm trên đường vang tiếng guốc,
Như một trưa chim chóc réo mùa hè
Tiếng dũa rèn đập nắng nhảy vàng hoe.
Tiếng tia sáng múa vờn quanh chiếc búa;
Những bánh xe quay, những guồng máy lụa
Những bàn chân dậm, những cánh tay nhanh,
Tiếng cất nhà, trời đất! gỗ lanh canh
Kêu thánh thót trong khi thành cửa sổ!
Những toa máy phì phì đang tập thở,
Những con tàu đẫy sức rúc huyên thiên:
– Tôi phải về nghe dự nhạc đoàn viên
Nhân loại mới nói cười như trẻ nhỏ.

Việt Nam sau một thời lao khổ,
Bây giờ cười như hoa nở.
Cô gái Việt gánh gồng xinh xinh,
Đâu cũng là những cô gái Bắc Ninh.

Hội loài người đông vui, luyến ái.
Cô Hạnh Phúc, đợi chờ cô mãi!
Gầy dựng cô, sứt mẻ những bàn tay,
Trật bả vai, rỏ máu những lông mày.
Nhưng cô đến, cả huy hoàng trên trán,
Đâu đã muộn rồi, hãy còn sớm chán!

Hội loà người vui vẻ lắm, ngày mai.
Tôi sẽ xin Đời, về một sớm mai.


8-1948

*

Trở Về – Cuộc Hội Ngộ Của Tình Yêu Và Sự Sống

Trong mỗi con người, luôn tồn tại một niềm khát khao được trở về – trở về với nơi chốn thân thuộc, với những gì gần gũi, với những con người mà ta yêu thương. Nhưng trong thơ Xuân Diệu, trở về không chỉ là hành trình của một cá nhân mà còn là sự hòa nhập của con người với cuộc đời, của cá nhân với tập thể, của tình yêu với sự sống.

Ngay từ những câu thơ đầu, tác giả đã mở ra một viễn cảnh đầy hy vọng:

“Cũng bởi vì tôi nhớ, tôi mong,
Một sớm mai hồng, tôi sẽ lên đường trở lại…”

Niềm mong nhớ ấy không chỉ dành cho một miền đất, một con người, mà là nỗi nhớ dành cho cuộc đời rộng lớn. Nhà thơ không trở về với quá khứ mà trở về với tương lai, với một thế giới mới, nơi có những ánh mắt trẻ thơ, những đôi môi thiếu nữ hồng tươi, nơi sự sống vẫn đang tiếp tục chảy tràn.

Bước chân trở về không vội vã mà nhẹ nhàng, như hương xuân len lỏi trong đêm, như ánh mắt yêu e ấp, như bàn tay quen thuộc vuốt ve một điều thân thương:

“Tôi sẽ trở về, chân vui rón rén
Như hương đi những đêm xuân hò hẹn,
Như mắt yêu len lén,
Như tay vuốt quen quen.”

Những hình ảnh ấy gợi lên một cảm giác dịu dàng, gần gũi, như thể sự trở về không chỉ là một hành động mà còn là một sự hòa tan vào cuộc sống, một cuộc hội ngộ giữa con người và chính những điều mình hằng thương nhớ.

Nhưng không chỉ có nỗi nhớ, Xuân Diệu còn trở về vì một lẽ sống mạnh mẽ hơn:

“Vì đang sống, tôi vẫn còn sống mãi,
Vì còn yêu, tôi lại muốn yêu thêm.”

Đây chính là tinh thần Xuân Diệu – một tình yêu đời mãnh liệt, một khát khao sống trọn vẹn từng khoảnh khắc. Con người không thể nào tách rời khỏi sự sống, không thể nào dửng dưng trước những thanh âm của thế giới.

Hình ảnh những âm thanh vang vọng như lời mời gọi thiết tha:

“Như một sớm trên đường vang tiếng guốc,
Như một trưa chim chóc réo mùa hè,
Tiếng dũa rèn đập nắng nhảy vàng hoe.
Tiếng tia sáng múa vờn quanh chiếc búa…”

Đó là tiếng của lao động, của sáng tạo, của những bàn tay đang dựng xây cuộc sống. Đó là tiếng gọi không thể cưỡng lại, tiếng gọi của ngày mai, của hạnh phúc. Làm sao có thể ngủ yên khi ngoài kia cuộc đời đang rộn ràng khúc nhạc đoàn viên?

Và cuối cùng, nhà thơ trở về với một niềm tin vững chắc vào ngày mai:

“Việt Nam sau một thời lao khổ,
Bây giờ cười như hoa nở.”

Niềm vui không chỉ là cá nhân mà là niềm vui chung của dân tộc, của nhân loại. Hình ảnh cô gái Việt gánh gồng xinh xinh hay những cô gái Bắc Ninh duyên dáng không chỉ là vẻ đẹp của con người mà còn là biểu tượng cho một đất nước đang vươn lên từ những đau thương.

Cuộc trở về của Xuân Diệu không phải là một sự hoài niệm mà là một hành trình hướng đến tương lai. Ông trở về để yêu, để sống, để hòa mình vào khúc ca mới của cuộc đời. Trở về không phải là quay lại một điểm xuất phát, mà là tiếp tục một hành trình bất tận – hành trình của tình yêu, của sự sống, của khát vọng không ngừng cháy bỏng trong trái tim con người.

Và thế là, nhà thơ khép lại bài thơ bằng một lời hẹn ước:

“Tôi sẽ xin Đời, về một sớm mai.”

Một sớm mai của ánh sáng, của niềm vui, của tiếng cười, của những bàn tay nắm lấy nhau trong hội ngộ. Đó là giấc mơ, nhưng cũng là hiện thực đang dần thành hình – bởi lẽ, chỉ có những ai thực sự yêu đời mới có thể tin tưởng và mong đợi một ngày mai như thế.

*

Xuân Diệu – “Ông hoàng thơ tình” của văn học Việt Nam

Xuân Diệu (1916–1985), tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu, là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của nền văn học hiện đại Việt Nam. Với phong cách sáng tác độc đáo, giàu cảm xúc và khát vọng yêu đời mãnh liệt, ông đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bao thế hệ độc giả.

Sinh ra tại Hà Tĩnh nhưng lớn lên ở Quy Nhơn, Bình Định, Xuân Diệu sớm bộc lộ niềm đam mê văn chương. Ông là gương mặt tiêu biểu của phong trào Thơ Mới, mang đến một luồng sinh khí mới cho thi ca Việt Nam. Những tác phẩm như Thơ thơ (1938) hay Gửi hương cho gió (1945) thể hiện rõ nét giọng điệu sôi nổi, táo bạo, chan chứa tình yêu và khát khao tận hưởng vẻ đẹp cuộc sống.

Sau năm 1945, Xuân Diệu chuyển hướng sáng tác, hòa mình vào dòng chảy cách mạng, ca ngợi quê hương, đất nước và con người lao động. Dù ở giai đoạn nào, thơ ông vẫn giữ nguyên vẹn sự say mê và rung động sâu sắc. Những tác phẩm như Riêng chung (1960) hay Hai đợt sóng (1967) tiếp tục khẳng định vị trí của ông trên thi đàn.

Không chỉ là nhà thơ, Xuân Diệu còn là nhà văn, nhà phê bình có ảnh hưởng lớn. Năm 1996, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật, ghi nhận những đóng góp to lớn của mình.

Xuân Diệu vẫn mãi là biểu tượng của thơ tình Việt Nam, là tiếng nói tha thiết của một tâm hồn luôn khát khao yêu và sống trọn vẹn từng khoảnh khắc:

“Hãy tận hưởng ngày giờ đang thở,
Và yêu đời, hãy sống mạnh hơn tôi.”

Viên Ngọc Quý

Bạn có thể chia sẻ bài viết qua:

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *