Bài văn trữ tình tự răn
Ngày tháng nước chảy
Giàu sang mây trôi.
Gió lửa tan rồi
Trẻ già thành bụi.
Hồn phách lìa, sắc thân như mộng
Cuộc mưu sinh, con rối kéo lôi,
Hằng ngày đùa, đưa tay bắt bóng.
Hạc cửu cao đầu đỏ có thừa
Cá vũ môn đuôi hồng chẳng đổi.
Chẳng quay đầu, hồi quang phản chiếu
Hợp tâm yếu, thức tánh thông minh.
Cầu giải thoát, chánh giác viên thành
Nơi trần tục, tâm thanh diệu dụng.
Trong mộng tạo tác
Thức rồi đều không.
Trong mộng tạo, sanh thô sanh tế
Tỉnh giấc rồi, không mảy tóc kẽ tơ.
Tâm thanh tịnh chẳng nhơ chẳng bợn
Thân kiên cố không trước không sau.
Sắc xuân hoa đoá đoá tươi hồng
Trăng thu bóng tròn tròn viên diệu.
Buộc niệm phàm Thánh
Chỉ hiềm là trái hẳn tướng chân.
Lòng quên tử sanh
Liền liễu ngộ xưa nay tánh thật.
Còn mảy tình tam đồ báo ứng
Tơ hào niệm lục đạo tiếp nhân.
Tuỳ bảy thức có chán có ưa
Phá ba độc không chân không vọng.
Tướng nhân ngã khó thâu khó nhiếp
Kiếp hà sa luân hồi tứ sanh.
Tham sân si cùng đấu cùng tranh
Số tăng-kỳ lang thang chín loại.
Nhận hướng theo khuôn phép vô minh
Luống uổng mất sắc thân tứ đại.
Khéo chuyển đổi các căn hữu lậu,
Liền chứng vào chánh định chân như.
Điên đảo nhị kiến
Là đem lưới bủa cá đầu non.
Tịch diệt nhất như
Cỡi ngược lừa tiến lên bờ giác.
Trong lòng nếu không thiên không đảng
Tai mặc nghe người mắng người chê.
Cầm lửa đốt trời luống tự nhọc
Mắt được thấy là xót là thương.
Cầu Chân như mà đoạn vọng niệm
Dường la to để át tiếng vang.
Bỏ phiền não mà giữ Niết-bàn
Tợ sợ bóng chạy vào nắng trốn.
Chợt vậy theo tâm viên ý mã
Khó tránh khỏi lợi buộc danh ràng.
Không quay về Tổ vức đạo tràng
Đâu tránh khỏi Diêm vương ngục tốt.
Đem bốn chữ “vô thường nhanh chóng”
Không thối chuyển, sáu giặc dẹp yên.
Nhóm lửa hồng chánh định đốt tiêu,
Chứng vào được vô dư Niết-bàn.
Giăng lưới lớn bủa bắt phượng hoàng
Chớ buông chí theo loài chim sẻ.
Nay muốn câu cá ngạc cá kình
Đừng bận bịu ễnh ương ếch nhái.
Chấp tay trân trọng
Bè bạn anh em!
Hoặc mỗi người có thánh có linh
Nên ghé mắt nhìn xem tiến tới.
Chao!
(Bản dịch của Thiền sư Thích Thanh Từ)
*
Giữa Mộng và Giác Ngộ – Lời Tự Răn Của Bậc Trí
Tuệ Trung Thượng Sĩ, bậc thiền giả kiệt xuất của đời Trần, không chỉ là một người thấu triệt chân lý mà còn là kẻ sĩ dùng lời thơ để thức tỉnh nhân gian. “Bài văn trữ tình tự răn” là một bài thơ như thế – một lời tự nhắc nhở bản thân nhưng cũng là tiếng chuông cảnh tỉnh cho những ai còn mê lầm trong cõi đời mộng ảo.
Ngay từ những câu thơ đầu, Tuệ Trung đã phác họa bức tranh vô thường của kiếp nhân sinh:
“Ngày tháng nước chảy
Giàu sang mây trôi.”
Thời gian như dòng nước cuốn trôi tất cả. Giàu sang, vinh hoa phú quý chỉ như đám mây thoáng qua trên bầu trời, chẳng thể giữ lại, chẳng thể níu kéo. Cuộc đời con người ngỡ là dài nhưng thực ra chỉ là một khoảnh khắc mong manh trong dòng chảy vô tận của vũ trụ.
Và rồi:
“Hồn phách lìa, sắc thân như mộng
Cuộc mưu sinh, con rối kéo lôi.”
Thân xác này rồi cũng tan thành cát bụi, cuộc sống chỉ như một giấc mộng hư ảo. Con người lao vào vòng xoáy mưu sinh, bị những ham muốn kéo lôi như những con rối vô tri, mãi chạy theo danh lợi mà chẳng bao giờ dừng lại để tự hỏi: rốt cuộc tất cả để làm gì?
Thượng Sĩ không dừng lại ở sự than thở về vô thường mà dẫn dắt người đọc đến con đường giác ngộ:
“Chẳng quay đầu, hồi quang phản chiếu
Hợp tâm yếu, thức tánh thông minh.”
Muốn thoát khỏi vòng xoáy mê lầm, con người cần quay đầu lại, soi chiếu vào nội tâm mình, nhận ra bản tánh sáng suốt vốn có. Không tìm cầu giải thoát ở đâu xa, bởi giác ngộ không phải là điều gì huyền bí mà chính là sự nhận thức chân thật về chính mình.
Tuệ Trung cảnh báo:
“Buộc niệm phàm Thánh
Chỉ hiềm là trái hẳn tướng chân.”
Ngay cả việc chấp vào phân biệt phàm – Thánh cũng là một sự trói buộc. Khi tâm còn vướng mắc vào những danh xưng, những khái niệm đúng – sai, cao – thấp, thì vẫn chưa thể đạt đến sự tự do tuyệt đối. Giác ngộ không phải là mong cầu một cảnh giới nào đó, mà là buông bỏ tất cả những vọng niệm để trở về với bản tánh chân thật.
Nhà thơ tiếp tục khai mở con đường giải thoát:
“Khéo chuyển đổi các căn hữu lậu,
Liền chứng vào chánh định chân như.”
Mọi đau khổ của con người đều xuất phát từ sự bám chấp vào những tham muốn, sân hận, si mê. Nhưng nếu biết cách chuyển hóa chúng, dùng trí tuệ để xoay chuyển nhận thức, thì ngay trong cuộc đời này cũng có thể đạt đến chân như – trạng thái tịch diệt an nhiên.
Cuối cùng, Thượng Sĩ nhắc nhở:
“Đem bốn chữ “vô thường nhanh chóng”
Không thối chuyển, sáu giặc dẹp yên.”
Nhận thức được vô thường là chìa khóa để không còn sợ hãi trước cái chết, không còn bị trói buộc bởi những khổ đau thế gian. Chỉ khi dẹp yên những phiền não, con người mới có thể tiến đến trạng thái giải thoát tuyệt đối, không còn bị cuốn vào vòng sinh tử.
“Bài văn trữ tình tự răn” không chỉ là một bài thơ triết lý mà còn là tấm bản đồ chỉ lối cho những ai đang kiếm tìm sự bình yên giữa dòng đời biến động. Đọc thơ Tuệ Trung Thượng Sĩ, ta không chỉ nhận ra sự mong manh của kiếp người mà còn thấy được ánh sáng của con đường đi đến chân lý, nơi mọi khổ đau đều có thể hóa giải bằng sự tỉnh thức và buông xả.
*
Tuệ Trung Thượng Sĩ (1230-1291), tên thật là Trần Tung, là một thiền sư lỗi lạc đời Trần, đồng thời là anh trai của Trần Hưng Đạo. Ông không chỉ giỏi binh pháp, từng góp công lớn trong kháng chiến chống Nguyên Mông, mà còn là bậc cao tăng với tư tưởng thiền học sâu sắc. Tuệ Trung không ràng buộc vào hình thức tôn giáo mà đề cao sự tự tại, xem Phật tính vốn sẵn trong mỗi người.
Tác phẩm Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục ghi chép những lời dạy và bài kệ của ông, thể hiện tinh thần thiền phá chấp, tự nhiên mà thâm sâu. Ảnh hưởng của Tuệ Trung đã đặt nền móng quan trọng cho sự phát triển của Thiền phái Trúc Lâm sau này.
Viên Ngọc Quý