Cảm nhận bài thơ: Chợt tỉnh – Tuệ Trung Thượng Sĩ

Chợt tỉnh

 

Đoán rằng Không Hữu chẳng khác nhau
Sanh tử vốn từ mạch sóng xao.
Trăng sáng tối qua, nay trăng sáng
Hoa cười năm mới, năm cũ hoa.
Ba đời nhanh chóng, gió đùa đuốc
Chín cõi xoay vần, kiến bò quanh.
Hoặc hỏi thế nào là cứu kính
Ma-ha Bát-nhã Tát-bà-ha.

(Bản dịch của Thiền sư Thích Thanh Từ)

*

Chợt Tỉnh Giữa Giấc Mộng Nhân Sinh

Có những khoảnh khắc, ta chợt giật mình giữa dòng đời cuộn chảy. Những gì ta từng tin chắc là thật bỗng chốc trở nên mong manh, những ranh giới ta vạch ra giữa có và không, giữa còn và mất, bỗng hóa thành ảo ảnh. Đó chính là khoảnh khắc ta chợt tỉnh – tỉnh khỏi giấc mộng luân hồi.

Tuệ Trung Thượng Sĩ, với tuệ nhãn vượt lên trên mọi đối đãi, đã để lại bài thơ “Chợt tỉnh”, như một lời đánh thức những ai còn đang chìm trong sự mê lầm của chấp trước:

“Đoán rằng Không Hữu chẳng khác nhau
Sanh tử vốn từ mạch sóng xao.”

Người đời mãi phân biệt giữa không, giữa sinhtử, mà không hay biết rằng tất cả chỉ là hai mặt của một dòng chảy vô tận. Như sóng trên đại dương, khi nổi lên gọi là sinh, khi lặng xuống gọi là tử, nhưng bản chất vẫn là nước. Có gì thực sự mất đi? Có gì thực sự sinh ra? Khi hiểu được điều ấy, thì còn gì để sợ hãi, còn gì để níu giữ?

“Trăng sáng tối qua, nay trăng sáng
Hoa cười năm mới, năm cũ hoa.”

Trăng đêm qua vẫn là trăng đêm nay, hoa năm cũ vẫn nở rộ như hoa của năm mới. Chỉ có con người là mãi thấy thời gian trôi, mãi nghĩ rằng tất cả đang đổi thay, trong khi thực tại vẫn luôn như thế, không sinh, không diệt. Chỉ có tâm vọng động của ta là không ngừng đuổi theo sự đổi thay của hình tướng.

“Ba đời nhanh chóng, gió đùa đuốc
Chín cõi xoay vần, kiến bò quanh.”

Quá khứ, hiện tại, tương lai – ba đời nối nhau như ngọn đuốc trước gió, bùng lên rồi vụt tắt trong chớp mắt. Chín cõi luân hồi xoay chuyển, con người mãi lẩn quẩn trong vòng tròn sinh tử, như con kiến bò quanh miệng chén, chẳng biết đâu là lối ra. Nhưng có thực sự tồn tại cái gọi là sinh tử, hay chỉ là tâm ta tự vẽ ra những vòng luân hồi bất tận?

Vậy đâu mới là chân lý? Làm thế nào để thoát khỏi vòng xoay ấy?

“Hoặc hỏi thế nào là cứu kính
Ma-ha Bát-nhã Tát-bà-ha.”

Nếu có ai hỏi đâu là cứu kính, đâu là chỗ rốt ráo của Đạo, thì câu trả lời chỉ đơn giản là Ma-ha Bát-nhã Tát-bà-ha trí tuệ rộng lớn, rỗng rang, vượt ngoài mọi đối đãi. Đó không phải là một tri thức có thể diễn giải bằng lời, mà là sự chợt tỉnh, là cái thấy thấu suốt tất cả, là sự trực nhận về bản chất bất sinh bất diệt của vạn pháp.

Bài thơ của Tuệ Trung Thượng Sĩ không nhằm lý giải chân lý, mà là một lời nhắc nhở để ta buông –buông đi những chấp niệm về có và không, buông đi những sợ hãi về sinh và tử, để thấy rằng tất cả chỉ là một dòng chảy tự nhiên, không cần nắm giữ, cũng chẳng cần trốn chạy.

Và khi ta thực sự chợt tỉnh, thế giới này sẽ vẫn như cũ trăng vẫn sáng, hoa vẫn nở nhưng ta sẽ không còn như xưa nữa. Vì khi ấy, ta đã bước ra khỏi giấc mộng của chính mình.

*

Tuệ Trung Thượng Sĩ (1230-1291), tên thật là Trần Tung, là một thiền sư lỗi lạc đời Trần, đồng thời là anh trai của Trần Hưng Đạo. Ông không chỉ giỏi binh pháp, từng góp công lớn trong kháng chiến chống Nguyên Mông, mà còn là bậc cao tăng với tư tưởng thiền học sâu sắc. Tuệ Trung không ràng buộc vào hình thức tôn giáo mà đề cao sự tự tại, xem Phật tính vốn sẵn trong mỗi người.

Tác phẩm Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục ghi chép những lời dạy và bài kệ của ông, thể hiện tinh thần thiền phá chấp, tự nhiên mà thâm sâu. Ảnh hưởng của Tuệ Trung đã đặt nền móng quan trọng cho sự phát triển của Thiền phái Trúc Lâm sau này.

Viên Ngọc Quý

Bạn có thể chia sẻ bài viết qua:

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *