Mùa xuân vô ý
Đây một mùa Xuân thầm lặng tới
Để một mùa Đông thầm lặng đi
Chiều về sắc núi in quan tái
Tím ngắt trần gian hoa loạn ly
Nhè nhẹ vết thương thuần sắc máu
Buồn như hình ảnh của phân kỳ
Mùa Xuân vô ý đem hương thắm
Về chận đường tôi. Mất lối đi !
Đau quá, hồn tôi tràn giá lạnh
Bơ vơ run tợ tiếng cầm ti
Lắng nghe trong gió mùa Xuân đến
Tràn ngập nhân gian vạn tiếng bi.
Chầm chậm sương mai vừa hé dậy
Gió đàn tâm sự ướt đôi mi
Chao ôi, bến nước thờ ơ quá
Một chuyến về, sau một chuyến đi !
Đường quê mấy ngả qua sông núi
Lặng lẽ cùng tôi nói những gì?
Nghe chăng Xuân ý ngàn phương dậy
Đang phổ lòng tôi khúc hận ly?
(Bài thơ nằm trong tập thơ “Ánh xuân vàng”)
*
Mùa Xuân vô ý và khúc nhạc tang thương trong hồn người ly biệt
Bài thơ “Mùa xuân vô ý” của Thiền sư Thích Nhất Hạnh không đến với người đọc như một khúc ca reo vui, mà như một bản tấu buồn thấm lạnh tận tâm can. Trong khi mùa xuân thường gợi lên hình ảnh của sức sống, của hoa nở và niềm vui trở về, thì ở đây, mùa xuân lại “vô ý”, mang hương sắc đến để chặn đường một kẻ đang lạc lối trong chia lìa, hoài niệm và đớn đau.
Mở đầu bài thơ, Thiền sư viết:
“Đây một mùa Xuân thầm lặng tới
Để một mùa Đông thầm lặng đi”
Câu thơ mộc mạc nhưng mang sức nặng triết lý. Cuộc đời là dòng chảy lặng lẽ, mọi đổi thay diễn ra không ồn ào, không báo trước, không níu kéo. Mùa đông ra đi không ai hay, mùa xuân đến không ai chào đón. Trong sự thầm lặng ấy, là một thế giới nội tâm đang chuyển mình, chao đảo. Sắc núi chiều in hình “quan tái” – một biểu tượng đầy sử thi về chiến tranh, chia cắt, tang tóc – hiện lên tím ngắt, mang theo cảm thức u buồn phủ trùm lên cảnh vật.
“Mùa Xuân vô ý đem hương thắm
Về chận đường tôi. Mất lối đi!”
Ở đây, Thiền sư không oán giận mùa xuân, nhưng trong nỗi cô đơn sâu kín, sự xuất hiện của mùa xuân trở thành một nghịch cảnh. Niềm vui của đất trời không thể xoa dịu được nỗi đau riêng tư. Xuân đến mà lòng người lạnh giá. Hương xuân không mở ra lối thoát, mà lại khiến nhà thơ cảm thấy như bị mắc kẹt, mất phương hướng, mất cả chốn quay về.
Tiếng mùa xuân thổi qua hồn người như “tiếng cầm ti” run rẩy. Đó không phải là âm thanh của nhạc hội, mà là tiếng lòng tan tác. Lắng nghe mùa xuân, nhà thơ không cảm nhận được niềm vui, mà chỉ thấy “vạn tiếng bi” – muôn vàn âm vang của nỗi buồn dội về từ khắp cõi nhân gian. Bài thơ đi qua những câu chữ mà mỗi chữ như một bước chân cô độc, bước giữa mùa xuân nhưng lòng ngập mùa đông. Cảm giác của một người trở về quê hương sau thời gian ly tán, đứng trước bến nước cũ, con đường cũ, cảnh vật cũ mà lòng người chẳng còn như xưa:
“Chao ôi, bến nước thờ ơ quá
Một chuyến về, sau một chuyến đi!”
Từng hình ảnh, từng nhịp thơ như đưa ta đi sâu vào thế giới của một người hành hương về tâm thức. Đó là hành trình nhìn lại những mất mát, phân ly, những cuộc ra đi không hẹn ngày trở lại. Những “ngả qua sông núi” trở thành người bạn đồng hành lặng lẽ, thì thầm kể cho nhà thơ nghe những chuyện xưa chưa thể nguôi ngoai.
Bài thơ kết thúc không phải bằng hy vọng mà bằng một nỗi niềm bi thiết, như tiếng ngân dài của một khúc ca ly biệt. Thông điệp của Thiền sư không nằm ở nỗi buồn, mà ở chỗ: trong sự vô thường của cuộc đời, ta phải có can đảm đối diện với những mùa xuân không trọn vẹn, những thời khắc không ấm áp, và những mất mát không thể gọi tên. Đó chính là con đường thực chứng của một tâm hồn thiền định: nhận diện khổ đau để từ đó buông xả, để đi tiếp trong tỉnh thức.
“Mùa xuân vô ý” không chỉ là một bài thơ, mà còn là tiếng vọng của những tâm hồn từng đi qua chiến tranh, lưu lạc và mất mát. Nhưng cũng chính từ đó, ta mới hiểu sâu hơn vẻ đẹp mong manh và quý giá của từng mùa xuân đang còn hiện diện quanh ta.
*
Thiền sư Thích Nhất Hạnh – Vị sứ giả của hòa bình và chánh niệm
Thiền sư Thích Nhất Hạnh (1926–2022) là một trong những vị thiền sư lỗi lạc và có ảnh hưởng sâu rộng nhất của Phật giáo thế giới đương đại. Không chỉ là một nhà tu hành, ngài còn là nhà văn, nhà thơ, học giả, nhà hoạt động xã hội vì hòa bình và người tiên phong đưa chánh niệm (mindfulness) vào đời sống thường nhật một cách thiết thực, giản dị nhưng sâu sắc.
Sinh ra tại tỉnh Thừa Thiên Huế, Việt Nam, Thích Nhất Hạnh xuất gia từ năm 16 tuổi tại chùa Từ Hiếu. Sau quá trình tu học và nghiên cứu, ngài đã có nhiều đóng góp quan trọng cho Phật giáo hiện đại, đặc biệt là trong việc kết nối tinh thần đạo Phật với các vấn đề xã hội. Ngài là người sáng lập Dòng tu Tiếp Hiện, Làng Mai (Plum Village) ở Pháp – một trung tâm tu học nổi tiếng thu hút hàng nghìn người từ khắp nơi trên thế giới.
Thông qua hàng trăm tác phẩm viết bằng tiếng Việt, tiếng Anh và các ngôn ngữ khác, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã truyền cảm hứng cho hàng triệu người về lối sống tỉnh thức, từ bi và không bạo lực. Những khái niệm như “hơi thở ý thức”, “thiền đi”, “an trú trong hiện tại” trở nên gần gũi với nhiều người nhờ vào cách giảng giải mộc mạc, giàu hình ảnh của ngài. Các tác phẩm tiêu biểu như Phép lạ của sự tỉnh thức, Đường xưa mây trắng, An lạc từng bước chân, Giận … là những cuốn sách được yêu mến và tìm đọc rộng rãi.
Trong suốt cuộc đời, ngài cũng là một nhà hoạt động tích cực cho hòa bình. Năm 1967, ngài được mục sư Martin Luther King Jr. đề cử Giải Nobel Hòa bình nhờ những nỗ lực vận động chấm dứt chiến tranh Việt Nam bằng con đường đối thoại và bất bạo động.
Ảnh hưởng và di sản của ngài không chỉ lan rộng trong cộng đồng Phật giáo mà còn được quốc tế ghi nhận sâu sắc. Năm 2011, khu tượng đài “Remember Them: Champions for Humanity” với diện tích khoảng 100m2 được đặt tại khu công viên Henry J. Kaiser Memorial, thành phố Oakland, tiểu bang California (Hoa Kỳ). Bức tượng điêu khắc chân dung 25 nhân vật nổi tiếng còn sống và đã qua đời, đã có cống hiến lớn lao vì quyền con người trên thế giới. Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một trong số những nhân vật được chọn để thể hiện trên tượng đài này, với những đóng góp của ngài cho công cuộc xây dựng hòa bình của nhân loại.
Vào ngày 11 tháng 4 năm 2025, thành phố New York đã chính thức đồng đặt tên đoạn đường West 109th Street (từ Riverside Drive đến Broadway) là “Thích Nhất Hạnh Way” để vinh danh Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Đây là nơi ngài từng sống và giảng dạy trong những năm 1960 khi theo học tại Union Theological Seminary và giảng dạy tại Đại học Columbia./.
Viên Ngọc Quý