Cảm nhận bài thơ: Chân dung – Thiền sư Nhất Hạnh

Chân dung

 

Gió sớm mai hồng lật những trang ngà
Tập thơ thời gian vô cùng dệt bằng tơ lụa không gian,
đóng bìa xanh rừng thẳm
Những trang thơ mênh mang lòng đại dương bát ngát
Tôi tìm bài thơ chân dung Em, nét chữ lung linh sắc hoa mầu lá

Trời cao đã cho đại dương sâu ngôi sao đẹp nhất của mình
Muôn đời mắt em ngời sáng
Trùng điệp sóng dồn về cát trắng
Trinh nguyên vừng trán phương Đông.
Gió mai thoảng về hơi thở
Cành lá thì thầm để rơi những giọt sương trời lác đác
Tây phương da trời là suối, những sợi tơ trời vén gọn,
để cho trăng nở tuyệt vời

Mưa, ôi những sáng tuôn mưa – trời đất chuyển mình,
dồn dập thét gào, những đọt cau xa oằn oại,
những con chim trong màn mưa bạc,
Tôi quỳ xuống rưng rưng. Tiếng gọi của em từ bản thể
vọng về, tôi gục đầu lắng hết tâm tư, mắt đầm lệ nhớ

Trưa, ôi những buổi trưa lắng vào tuyệt đối – trời cao xanh ngắt,
bâng khuâng nghe tiếng gọi tôi về
Tiềm thức dâng tràn u hoài của thăng trầm mấy kiếp
Lá đón nắng hồng mai đến: chiếc áo tháng tư nhẹ sắc,
thoáng hương kỳ ảo mùa Xuân
Em khắp nơi
Và đôi bàn tay em, đôi bàn tay, hoa nở tuyệt vời trên sự sống
Phép mầu hiển hiện khi những ngón tay ngà hé mở:
Chim bồ câu xoè cánh trắng
Cao vút trời xanh hoà bình toả rạng – tiếng ngợi ca
vẳng lại tự những tinh cầu xa…

Đêm bình yên. Trời cao. Biển dâng từng đợt sóng
Và đợt sóng cao, to
Hào hùng hơn cả
Đang vươn mình tìm tới tận chân trời.

Nét chữ trăng sao trên tờ thơ mầu nhiệm
Em về: hoa hồng hé cánh
Tia nắng đầu reo vui trên mầu hoa đại còn đẫm ướt sương khuya
Nụ cười tới trên cánh hồng sen úp mi, hé nở:

Bờ xanh xanh, hương xa gọi về muôn huyễn tượng
Long lanh mặt trời chói rạng trong ngàn sương đọng giọt.

Mắt mờ hoen lệ
Trước nhiệm mầu biểu hiện
Tôi mỉm cười nhìn mây nước:
Bài thơ em hé vườn sáng chân như.

(Bài thơ nằm trong Tập thơ Chắp tay nguyện cầu cho bồ câu trắng hiện (NXB Lá Bối, 1965) gồm những bài thơ kêu gọi hoà bình cho Việt Nam)

*

“Bài thơ Em hé – vườn sáng chân như”

Giữa thời khắc nhân loại còn đang run rẩy trong bão tố chiến tranh, giữa những tiếng gào thét của lịch sử, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã chọn viết về “Chân dung” – không phải chân dung của một con người cụ thể, mà là chân dung của cái đẹp tuyệt đối, cái đẹp bất khả phân ly giữa hình hài và linh hồn, giữa sự sống và chân lý.

Bài thơ “Chân dung” như một tấm gương trong suốt phản chiếu bản thể rực rỡ của con người khi trở về với tánh giác nguyên sơ, khi biết sống, cảm và nhìn bằng con mắt tỉnh thức.

1. Chân dung không vẽ bằng màu, mà bằng sự nhiệm mầu của hiện hữu

“Tôi tìm bài thơ chân dung Em, nét chữ lung linh sắc hoa mầu lá”
“Nét chữ trăng sao trên tờ thơ mầu nhiệm”

Chân dung em trong thơ Thiền sư – không cần phác họa khuôn mặt, ánh mắt, hay dáng hình. Em là hiện thân của cái đẹp toàn vẹn, cái đẹp không bị giới hạn bởi hình tướng, bởi thời gian hay không gian.

Nét chữ viết bằng sắc hoa, bằng màu lá, bằng trăng sao – ấy là chữ của bản thể, chữ của hiện hữu tươi mới mỗi sớm mai. Không phải là chân dung của một cá nhân riêng biệt, mà là chân dung của sự sống khi nó được nhìn bằng cái thấy vô phân biệt, khi người và vũ trụ không còn ranh giới.

2. Em – phép mầu của sự sống, là trăng, là mưa, là chim câu hoà bình

“Phép mầu hiển hiện khi những ngón tay ngà hé mở:
Chim bồ câu xoè cánh trắng
Cao vút trời xanh hoà bình toả rạng”

Em – không chỉ là biểu tượng của cái đẹp – em là biểu tượng của sự sống biết tha thứ, biết hoà giải, biết yêu thương. Bàn tay em, khi mở ra, là bàn tay không mang gươm giáo, không khép kín hờn giận – mà là cánh cửa của phép mầu, nơi chim bồ câu bay lên – bay qua bờ bến của chiến tranh, chia rẽ, vô minh.

Trong một thế giới bị phân mảnh vì quyền lực, vì ý thức hệ, vì tổn thương, Thiền sư vẽ em như một nhịp cầu dẫn về lại bản thể chân thật – nơi chỉ còn tiếng chim hót, tiếng thơ ca, tiếng gọi của tinh cầu xa vọng lại rằng: “Hãy tỉnh thức. Hãy yêu.”

3. Vũ trụ là một tập thơ, và em là bài thơ đẹp nhất trong đó

“Tập thơ thời gian vô cùng dệt bằng tơ lụa không gian,
đóng bìa xanh rừng thẳm”

Vũ trụ trong cái nhìn của Thiền sư – không phải là nơi lạnh lẽo của khoa học cơ giới. Vũ trụ là một tập thơ, và mỗi sớm mai, mỗi giọt sương, mỗi cành cau oằn mình trong mưa gió đều là những dòng thơ đang được viết ra không ngừng bằng chất liệu của hiện hữu.

Em là bài thơ nằm trong tập thơ vô cùng ấy. Bài thơ không chỉ để ngắm, để đọc, mà để thở cùng, sống cùng, và tan vào.

Khi nhìn ra thế giới với đôi mắt ấy, không còn em hay tôi, không còn biển và mây – chỉ còn một tấm gương sáng trong phản chiếu “chân như” – tức là thực tại nhiệm mầu không bị nhuốm màu tri giác sai biệt.

4. Từ nước mắt đến nụ cười: sự chuyển hoá qua cái thấy tỉnh thức

“Mắt mờ hoen lệ
Trước nhiệm mầu biểu hiện
Tôi mỉm cười nhìn mây nước”

Từ nước mắt tưởng như vì chia xa, vì mất mát, người đã mỉm cười – không phải vì nỗi buồn tan biến, mà vì thấy được cái đẹp sâu thẳm trong mọi biểu hiện của đời sống, dù là trong buổi trưa lặng tuyệt đối, hay trong cơn mưa bạc gào thét.

Cái nhìn của Thiền sư là cái nhìn vượt lên trên khổ đau nhưng không chối bỏ khổ đau, một cái nhìn biết nâng niu cả những giọt nước mắt và nụ cười – vì tất cả đều là biểu hiện của phép mầu lớn lao: ta đang sống. Em đang hiện diện. Sự sống đang tiếp diễn bằng thơ.

5. Em là chân dung của chân lý, của sự trở về, của hoà bình không điều kiện

“Bài thơ em hé vườn sáng chân như”

Chân như – là bản chất rốt ráo của mọi sự vật, vượt khỏi tên gọi, hình dáng, khái niệm. Khi bài thơ “em” hé mở, không chỉ là bông hoa hiện ra – mà cả khu vườn chân như sáng rỡ, mở ra một cái thấy mới: em là ta, ta là em, không hai.

Và từ đó, mọi giấc mơ chấm dứt, không còn cần mơ về hoà bình – bởi hoà bình là cái đang có mặt ngay khi ta biết trở về.

Kết: “Tôi mỉm cười nhìn mây nước” – Thơ là con đường trở về chính mình

Bài thơ “Chân dung” không khuyên ta trốn chạy khỏi thế giới đầy biến động, mà khơi gợi nơi ta một cái nhìn mới mẻ, đầy yêu thương và hiểu biết về thế giới. Em trong bài thơ là lời nhắc nhở dịu dàng rằng:

Chúng ta không chỉ sống giữa thơ, mà chính mình cũng là thơ.
Không chỉ là người sáng tạo cái đẹp, mà là chính cái đẹp ấy.

*

Thiền sư Thích Nhất Hạnh – Vị sứ giả của hòa bình và chánh niệm

Thiền sư Thích Nhất Hạnh (1926–2022) là một trong những vị thiền sư lỗi lạc và có ảnh hưởng sâu rộng nhất của Phật giáo thế giới đương đại. Không chỉ là một nhà tu hành, ngài còn là nhà văn, nhà thơ, học giả, nhà hoạt động xã hội vì hòa bình và người tiên phong đưa chánh niệm (mindfulness) vào đời sống thường nhật một cách thiết thực, giản dị nhưng sâu sắc.

Sinh ra tại tỉnh Thừa Thiên Huế, Việt Nam, Thích Nhất Hạnh xuất gia từ năm 16 tuổi tại chùa Từ Hiếu. Sau quá trình tu học và nghiên cứu, ngài đã có nhiều đóng góp quan trọng cho Phật giáo hiện đại, đặc biệt là trong việc kết nối tinh thần đạo Phật với các vấn đề xã hội. Ngài là người sáng lập Dòng tu Tiếp Hiện, Làng Mai (Plum Village) ở Pháp – một trung tâm tu học nổi tiếng thu hút hàng nghìn người từ khắp nơi trên thế giới.

Thông qua hàng trăm tác phẩm viết bằng tiếng Việt, tiếng Anh và các ngôn ngữ khác, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã truyền cảm hứng cho hàng triệu người về lối sống tỉnh thức, từ bi và không bạo lực. Những khái niệm như “hơi thở ý thức”, “thiền đi”, “an trú trong hiện tại” trở nên gần gũi với nhiều người nhờ vào cách giảng giải mộc mạc, giàu hình ảnh của ngài. Các tác phẩm tiêu biểu như Phép lạ của sự tỉnh thức, Đường xưa mây trắng, An lạc từng bước chân, Giận … là những cuốn sách được yêu mến và tìm đọc rộng rãi.

Trong suốt cuộc đời, ngài cũng là một nhà hoạt động tích cực cho hòa bình. Năm 1967, ngài được mục sư Martin Luther King Jr. đề cử Giải Nobel Hòa bình nhờ những nỗ lực vận động chấm dứt chiến tranh Việt Nam bằng con đường đối thoại và bất bạo động.

Ảnh hưởng và di sản của ngài không chỉ lan rộng trong cộng đồng Phật giáo mà còn được quốc tế ghi nhận sâu sắc. Năm 2011, khu tượng đài “Remember Them: Champions for Humanity” với diện tích khoảng 100mđược đặt tại khu công viên Henry J. Kaiser Memorial, thành phố Oakland, tiểu bang California (Hoa Kỳ). Bức tượng điêu khắc chân dung 25 nhân vật nổi tiếng còn sống và đã qua đời, đã có cống hiến lớn lao vì quyền con người trên thế giới. Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một trong số những nhân vật được chọn để thể hiện trên tượng đài này, với những đóng góp của ngài cho công cuộc xây dựng hòa bình của nhân loại.

Vào ngày 11 tháng 4 năm 2025, thành phố New York đã chính thức đồng đặt tên đoạn đường West 109th Street (từ Riverside Drive đến Broadway) là “Thích Nhất Hạnh Way” để vinh danh Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Đây là nơi ngài từng sống và giảng dạy trong những năm 1960 khi theo học tại Union Theological Seminary và giảng dạy tại Đại học Columbia./.

Viên Ngọc Quý

Bạn có thể chia sẻ bài viết qua:

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *