Cảm nhận bài thơ: Trường ca Avril – Thiền sư Nhất Hạnh

Trường ca Avril

 

Avril về
Trong rừng cây trang nghiêm
Tình thương đã từ nơi ngàn xanh nơi suối trong thể hiện
Bàn tay Mẹ nhiệm mầu
Sửa soạn cho chúng ta ra đời
Trong hào quang của mùa xuân tình thương ấm áp

Đưa tôi ra đời hôm mồng bốn
Khắp nơi chim lạ bay về hát ca
Ngơ ngác như một con nai con nhìn trời xanh, nhìn suối trong,
nhìn lộc non trên cành cây,
Tôi về khi vũ trụ đang chuyển mình trong mùa tuôn dậy.

Rừng cây đang thay áo mới
Con nai con khờ dại soi mình trên dòng nước
Lắng tai nghe tiếng thì thầm gió lạ
Mạch sống dâng
Lời hát ca trong từng nụ nhiệm mầu

Quê hương tôi là rừng sâu
Có những thân cây vươn mình thẳng tắp
Mỗi khi nắng xuân về xối chảy trên ngọn cây, hương rừng bay
Mây trắng che trên trời xanh biêng biếc
Rừng cây
Bãi cỏ xanh non
Và một dòng nước thấm lòng đất mát.

Trời đất vừa sinh ra tôi
Chim chóc ca ngày thứ nhất
Đất trời dâng hương ngất ngây
Tôi lớn lên, dòng suối ca ngày thứ hai
Và con nai con tìm tới, ngây thơ, bên bờ xanh mướt cỏ
Nghiêng đầu nghe ngóng
Nhựa dâng đầu cành giục giã những nụ hoa
thẹn thùng chưa muốn hé
Cho vừa nở kịp ngày thứ ba
Nắng ấm reo vui trên cành biếc nõn nà
Ngày thứ tư vừa lại. Hoa anh đào khai hội
Có gì mới lạ trong tiếng ca mùa mới đang lên?
Ngày thứ năm. Bình minh về bất chợt
Rừng thức giấc trong mùi thơm ngây ngất
Của ban mai kết đọng hương ngàn hoa
Và cũng bất thần em về. Trong rừng sâu hiển hiện,
Em rón rén bước từng bước nhẹ, trên màu xanh thảm lụa
Con nai con vẫn giương mắt nhìn em ngơ ngác
Trong giây phút thiêng liêng huyền hoặc
Em biến thành một bông hoa nhỏ bám vào lòng đất mẹ thương yêu

Nắng lên, một giọt sương long lanh còn vương
trên cánh hoa sao bé nhỏ
Nhưng rừng cây không hay
Hiện-hữu-em ca bài ca bất diệt
Tiếng ca em quen thuộc như đã có từ ngàn xưa
trong rừng sâu lặng lẽ nghiêm trang

Con nai con vẫn giương mắt nhìn quanh
Không có gì thêm
Không có gì mới lạ
Không nghĩ rằng em trong rừng sâu vừa lạc
Bởi vì tiếng ca em hoà mầu nhiệm trong khúc ca
mùa Tuôn Dậy màu xanh
Bông hoa kia như đã cùng có mặt một lần với đất mẹ buổi ban đầu.

Một con chim nghiêng nghiêng mắt nhỏ nhìn em
và tung ra một tràng ngọc âm thanh trong suốt
Chim, hoa, cây, suối
Không ngừng ca
Cả rừng cây hợp tấu
Không ngừng lại để hỏi em có mặt tự bao giờ.
Bông hoa bé nhỏ rừng cây
Một phần của hiện hữu vô thỉ vô chung
Em không phải Tạo Sinh mà chỉ là Biểu Hiện.

Rừng cây đã thay xong áo mới
Ngày mồng mười có hai đứa trẻ con nhà ai nắm tay nhau tung tăng chạy trên bãi cỏ xanh non, tiếng cười trong veo như tiếng hót chim hoàng oanh buổi sáng
Chúng băng qua đồng cỏ và dừng lại bên cửa rừng
Nắng phơi phới reo
“Avril đã về trong rừng cây” đứa bé thì thầm bên tai đứa lớn
Như khám phá ra điều gì tối ư quan trọng
Chúng nắm chặt tay nhau và cùng lắng tai nghe…
Phải rồi, khúc hát bất diệt mùa xuân
Hai đứa nhìn nhau. “Avril đã về trong rừng cây “,
phen nầy đứa lớn thì thầm bên tai đứa bé.

Nắng ấm tràn lan cây cỏ
Bỗng con nai con xuất hiện ở cửa rừng sưởi nắng
Bốn gót chân mang theo hương thơm những bông hoa
vàng tím trong rừng
Có đàn bướm lạ tung tăng đọt cây bờ suối
Bay đến gần nai.
Nắng ấm vẫn reo
Dòng nước vẫn đi vào lòng đồng cỏ xanh êm ái
Nhưng con nai con và hai đứa bé đã cùng lạc vào rừng sâu
Tìm theo tiếng hát nhiệm mầu.

Bỗng nhiên có tiếng nổ dồn dập kinh hoàng
Một đàn chim sắt ào ào bay đến
Toé tung lửa đồng khạc trên đồng xanh, mặt suối
Rào rào xé mây tung gió
Tự nhiên rừng cây bặt tiếng hát ca.
Hoa khép không dâng hương
Suối trong không soi dáng mây trời
Chim chóc lặng im như khi đêm về nằm yên trong tổ kín.

Nhưng rồi cuối cùng đàn chim sắt bay đi
Rừng xanh trở về bình an,
Thanh tịnh.
Rừng cây mỉm cười
Tiếng hát ca mùa tuôn dậy vẫn như chưa từng bao giờ đứt đoạn
Cành lá chuyền nhau tin vui
Tiếng thì thầm êm ái
Con nai con đã cùng hai đứa bé tìm ra bông hoa tím nhỏ
(Bông hoa vẫn không ngưng lời hát ca)
Đứa nhỏ ôm lấy đầu nai
Đứa lớn vuốt ve mình nai
Tất cả hát theo bài hát ngàn đời của nhiệm mầu hiện hữu.

Ngoài kia nắng ấm vẫn reo
Avril trong rừng cây nguyên vẹn
Dòng suối đi sâu êm êm vào lòng đất
Và muôn vạn bông hoa vàng tím đã nở, tự bao giờ,
lấm tấm trên cánh đồng cỏ xanh non.

(Bài thơ nằm trong Tập thơ Chắp tay nguyện cầu cho bồ câu trắng hiện (NXB Lá Bối, 1965) gồm những bài thơ kêu gọi hoà bình cho Việt Nam)

*

Avril trong rừng cây – Khúc ca hồi sinh của hiện hữu nhiệm mầu

“Trường ca Avril” của Thiền sư Thích Nhất Hạnh không chỉ là một bài thơ – đó là bản giao hưởng thiêng liêng của đất trời, tình thương và sự sống. Bài thơ viết về mùa xuân, nhưng không phải mùa xuân của riêng một vùng đất hay một thời khắc. Avril trong thơ là biểu tượng của mùa tuôn dậy, mùa của tình thương và sự thức tỉnh, một mùa xuân không thể bị tiêu diệt, dù chiến tranh có tàn bạo đến đâu.

Bằng ngôn ngữ trong trẻo, hồn nhiên và thấm đẫm chiều sâu thiền quán, Thiền sư đã vẽ nên một bức tranh vũ trụ đang nở hoa từ chính tình yêu thương và sự tỉnh thức của con người.

Avril về
Trong rừng cây trang nghiêm
Tình thương đã từ nơi ngàn xanh nơi suối trong thể hiện

Ngay những câu mở đầu, Avril – tháng Tư – không chỉ là mùa trong năm, mà là sự trở về của một hiện hữu tinh khôi và yêu thương. Rừng cây “trang nghiêm”, suối trong và ngàn xanh trở thành pháp thân của Mẹ – của Đại Từ Bi – nuôi dưỡng và khai sinh vạn vật. Mỗi hình ảnh đều mang chất thiền: lặng, sâu, và đầy sự sống.

Ngơ ngác như một con nai con nhìn trời xanh, nhìn suối trong,
nhìn lộc non trên cành cây,
Tôi về khi vũ trụ đang chuyển mình trong mùa tuôn dậy.

Thi sĩ là một phần của rừng, như “con nai con ngơ ngác”. Cái nhìn của thiền sư là cái nhìn của sự đồng nhất giữa chủ thể và thế giới, giữa con người và vạn vật. Trong cái ngơ ngác ấy là cả một bầu trời vừa mới sinh ra – không vì thi sĩ đến mà hiện hữu, mà vì thi sĩ đã thấy nó bằng con mắt trong lành của một trái tim chưa từng tổn thương.

Rừng cây đang thay áo mới
Mạch sống dâng
Lời hát ca trong từng nụ nhiệm mầu

Mỗi nụ hoa là một bài hát, mỗi chuyển động là một điều thiêng. Đất trời không cất tiếng bằng ngôn ngữ con người, mà bằng sự hiện hữu của chúng – trong im lặng, trong mùi hương, trong sắc màu và chuyển động tinh tế.

Em rón rén bước từng bước nhẹ, trên màu xanh thảm lụa

Em biến thành một bông hoa nhỏ bám vào lòng đất mẹ thương yêu

“Em” xuất hiện không như một nhân vật, mà như một biểu hiện của cái đẹp, cái trong lành và thuần khiết nhất của cuộc đời. Em là bông hoa – là một phần của rừng, của đất mẹ. Em không sinh ra để được chú ý, mà để tiếp nối bài hát bất diệt của hiện hữu.

Không có gì mới lạ
Không nghĩ rằng em trong rừng sâu vừa lạc

Em không phải Tạo Sinh mà chỉ là Biểu Hiện.

Câu thơ như một mặc khải của thiền học. Không có gì mới, không có gì lạ, bởi vì mọi biểu hiện đều là tiếp nối của cái đã có từ vô thủy. Em không “tạo nên” hiện hữu, nhưng em biểu hiện hiện hữu, em là một giọt nước không rời khỏi dòng sông.

Bỗng nhiên có tiếng nổ dồn dập kinh hoàng
Một đàn chim sắt ào ào bay đến
Toé tung lửa đồng khạc trên đồng xanh, mặt suối

Rồi đến đây – hiện thực khốc liệt của chiến tranh như một cơn bão dữ phá tan vườn xuân. Hình ảnh “chim sắt” và “lửa đồng” đối lập tàn nhẫn với rừng cây, nai con và bông hoa. Nhưng bài thơ không dừng lại ở kinh hoàng ấy – mà vững tin vào khả năng hồi sinh của sự sống.

Nhưng rồi cuối cùng đàn chim sắt bay đi
Rừng xanh trở về bình an,
Thanh tịnh.
Rừng cây mỉm cười
Tiếng hát ca mùa tuôn dậy vẫn như chưa từng bao giờ đứt đoạn

Không một giọt máu nào được mô tả, không một tiếng oán than. Nhưng nỗi đau chiến tranh vẫn được truyền tải bằng sự lặng câm của cỏ cây, tiếng hát bỗng im lặng – và sự trở về âm thầm của mùa xuân. Bài thơ cho ta thấy: chân lý không nằm ở việc đánh trả, mà nằm ở sự không đoạn tuyệt. Rừng vẫn hát – dù từng bị bức bách im lặng. Mùa xuân không chết – chỉ tạm ẩn mình để rồi hồi sinh bằng nụ cười của cỏ hoa.

Con nai con đã cùng hai đứa bé tìm ra bông hoa tím nhỏ

Tất cả hát theo bài hát ngàn đời của nhiệm mầu hiện hữu.

Hình ảnh kết thúc là một khúc hợp xướng của hồn nhiên và hòa bình. Nai con, bông hoa tím, hai đứa bé – tất cả đều không cần biết nhau là ai, chỉ biết cùng hát một bài ca bất diệt của sự sống. Một thứ tiếng ca không phân biệt con người hay cây cỏ, không phân biệt có mặt từ bao giờ – chỉ cần biết: ta đang cùng sống, cùng thở, cùng nâng niu nhau trong một mảnh đất này.

“Trường ca Avril” không mang trong mình nỗi buồn bi lụy, dù có bóng chiến tranh. Bởi bài thơ không là lời kể về mất mát – mà là lời nguyện về sự gìn giữ. Thiền sư không kêu gọi người đọc chống lại, mà mời họ trở về – lắng nghe, chạm vào điều linh thiêng có thật trong từng chiếc lá, từng bông hoa, từng bước chân bé nhỏ.

Bài thơ dạy ta rằng: Hòa bình không đến từ những khẩu hiệu, mà đến từ khả năng thấy được “Avril trong rừng cây” – giữa mọi hoang tàn.

*

Thiền sư Thích Nhất Hạnh – Vị sứ giả của hòa bình và chánh niệm

Thiền sư Thích Nhất Hạnh (1926–2022) là một trong những vị thiền sư lỗi lạc và có ảnh hưởng sâu rộng nhất của Phật giáo thế giới đương đại. Không chỉ là một nhà tu hành, ngài còn là nhà văn, nhà thơ, học giả, nhà hoạt động xã hội vì hòa bình và người tiên phong đưa chánh niệm (mindfulness) vào đời sống thường nhật một cách thiết thực, giản dị nhưng sâu sắc.

Sinh ra tại tỉnh Thừa Thiên Huế, Việt Nam, Thích Nhất Hạnh xuất gia từ năm 16 tuổi tại chùa Từ Hiếu. Sau quá trình tu học và nghiên cứu, ngài đã có nhiều đóng góp quan trọng cho Phật giáo hiện đại, đặc biệt là trong việc kết nối tinh thần đạo Phật với các vấn đề xã hội. Ngài là người sáng lập Dòng tu Tiếp Hiện, Làng Mai (Plum Village) ở Pháp – một trung tâm tu học nổi tiếng thu hút hàng nghìn người từ khắp nơi trên thế giới.

Thông qua hàng trăm tác phẩm viết bằng tiếng Việt, tiếng Anh và các ngôn ngữ khác, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã truyền cảm hứng cho hàng triệu người về lối sống tỉnh thức, từ bi và không bạo lực. Những khái niệm như “hơi thở ý thức”, “thiền đi”, “an trú trong hiện tại” trở nên gần gũi với nhiều người nhờ vào cách giảng giải mộc mạc, giàu hình ảnh của ngài. Các tác phẩm tiêu biểu như Phép lạ của sự tỉnh thức, Đường xưa mây trắng, An lạc từng bước chân, Giận … là những cuốn sách được yêu mến và tìm đọc rộng rãi.

Trong suốt cuộc đời, ngài cũng là một nhà hoạt động tích cực cho hòa bình. Năm 1967, ngài được mục sư Martin Luther King Jr. đề cử Giải Nobel Hòa bình nhờ những nỗ lực vận động chấm dứt chiến tranh Việt Nam bằng con đường đối thoại và bất bạo động.

Ảnh hưởng và di sản của ngài không chỉ lan rộng trong cộng đồng Phật giáo mà còn được quốc tế ghi nhận sâu sắc. Năm 2011, khu tượng đài “Remember Them: Champions for Humanity” với diện tích khoảng 100mđược đặt tại khu công viên Henry J. Kaiser Memorial, thành phố Oakland, tiểu bang California (Hoa Kỳ). Bức tượng điêu khắc chân dung 25 nhân vật nổi tiếng còn sống và đã qua đời, đã có cống hiến lớn lao vì quyền con người trên thế giới. Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một trong số những nhân vật được chọn để thể hiện trên tượng đài này, với những đóng góp của ngài cho công cuộc xây dựng hòa bình của nhân loại.

Vào ngày 11 tháng 4 năm 2025, thành phố New York đã chính thức đồng đặt tên đoạn đường West 109th Street (từ Riverside Drive đến Broadway) là “Thích Nhất Hạnh Way” để vinh danh Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Đây là nơi ngài từng sống và giảng dạy trong những năm 1960 khi theo học tại Union Theological Seminary và giảng dạy tại Đại học Columbia./.

Viên Ngọc Quý

Bạn có thể chia sẻ bài viết qua:

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *