Tiếng gầm sư tử lớn
Mây bay – mây trắng bay
Một đoá tường vi nở
Bay đó, vốn là mây
Nở đó là hoa vậy
Tường vi một đoá nở
Mây trắng từng cụm bay
Không mây thì không bay
Không hoa thì không nở
Mây là bay
Hoa là nở
Giả thiết và lập ngôn
Hình bóng và khái niệm
Đã mở ra trận đồ
Điểm là nơi gặp gỡ
Của hai đường tìm nhau
Đường là điểm di chuyển
Tôi dựng cao bằng thấp
Tôi xây thấp bằng cao
Tôi lập trái làm phải
Tôi chia nhiều bằng một
Bàn tay tôi năm ngón
Những ngón dài ngón ngắn
Là cành cây lá non
Tư duy tôi sinh trưởng
Như hoa nở thành búp
Cây sắc thân máu huyết
Thịt xương và đờm dãi
Tế bào và thần kinh
Hình tượng và độc ảnh
Thức ăn – và bài tiết
Này đây những khớp xương
(Mà ngày mai còn lại
Không phải là của tôi
Không phải là của anh
Nhưng ôi tội nghiệp thay –
Gây huyễn giác vô thường
Khiến em đã đôi khi
Khóc thầm cho thân phận)
Tư tưởng tôi gửi đi
Mười phương sóng giao cảm
Em tìm cách chép ghi
Ngôn từ tôi nói ra
Âm ba dồn dập chuyển
Em tìm cách chép ghi
Hình ảnh tôi chiếu dọi
Miệng tôi nói, mắt cười
Em tìm cách chép ghi
Ngỡ rằng giữ lại được
Chiều theo thời không gian
Em tìm lại dấu vết
Dấu vết y như thực
Tôi chiếu lại khúc phim
Những ngón tay em
Lấm tấm trên màn bạc
Xót thương
Xót thương chi
British Museum hôm ấy
Người đó nằm khum sấp xuống
Nghiêng nghiêng vừng ưu tư
Năm nghìn năm trước Chúa
Năm nghìn năm sau Chúa
Ô hay nào khác chi?
Cát nóng đã giữ lại
Như máy ghi âm kia
Cát nóng giữ được gì?
(Hay chỉ là một tờ
Thông điệp đau mầu nhiệm?)
Da thịt tôi nóng mềm
Máu chảy tươi, êm ả
Có những hạch tiết tuyến
Chưa khô cạn hôm nay
Có tinh dịch, nước bọt
Có nụ cười rất tươi
Có ước muốn, dự tưởng
Tôi đã từng ôm lấy
Cả cuộc đời trong tay
Một chiếc bong bóng đỏ
Trong tay em bé quê
Vì máu huyết chưa khô
Vì tinh dịch chưa cạn
Có đã là mầu nhiệm
Không cũng là mầu nhiệm
Có không đều như nhau
Không có gì sai khác
Chỉ ảo tưởng về tôi
Tạo cảm giác khổ đau
Thịt tôi mềm hôm nay
Thần kinh tôi xúc động
Nệm giường đời êm ấm
Tôi nghe lời rên siết
Ôi mầu sắc tuyệt trần
Bởi vì tôi có mắt
Ôi âm thanh vi diệu
Vì tôi đang có tai
Tuyệt trần và vi diệu
Là với mắt với tai
Tuyệt trần và vi diệu
Là với manas này
Có manas là vi diệu
Không manas cũng là vi diệu
Vi diệu là vi diệu
Manas, manas ơi
Không vi diệu là không vi diệu
Manas, manas ơi
Có là có manas
Không là không manas
Vi diệu là không hay là có
Manas là có hay là không
Manas, ô manas
Không manas ô không manas
Đều là manas hết
Có không đều là bịa đặt
Manas, cho tôi cười!
Tôi dẫm chân khóc rống
Khi mẹ mất
Hôm ấy nắng mai hồng
Gió thổi về nửa đêm
Một ít nhiều nước mắt
Thầm lặng chảy thành dòng
Những tuyến của nước mắt
Còn dư cho mùa đông
Mẹ cười
Mẹ không cười
Không mẹ hay có mẹ
Tôi dẫm chân – lún đất
Đất lún vào chân không
Hôm qua trời dịu nắng
Mẹ trồng vài luống hoa
Mẹ chết lúc nửa đêm
Luống hoa lên
Bông hoa cười
Này đừng cười
Tôi đánh thấy mồ
Ô hay cái ông này kỳ quá
Cười hay không cười
Lúc bây giờ cũng hết
Hết hay không hết
Bây giờ cũng hết
Ông nói như đồ điên
Mắt em là tứ đại
Mà rạng ngời yêu thương
Là hay là không là
Leo lên cây làm chi
Để rồi em sợ ngã
Đặt vấn đề làm chi
Cho vô minh xao động
Cho ngăn tràn sự sống
Mắt em là tứ đại
Mà oán hận ngập tràn
Có bàn tay tôi đây
Nước giải oan tẩy rửa
Súng kia là vô tội
Bàn tay kia vô tội
Bông hoa, viên đạn đồng
Nuôi nấng cho hoa nở
Những chiếc gai để châm
Con sâu ăn cuống non
Con sâu xanh mầu ngọc
Giọt nước mắt pha lê
Giọt nước bùn vẩn đục
Ôi tôi biết nói gì
Cười cũng là ngu phu
Khóc cũng là ngu phu
Vừa cười lại vừa khóc
Cũng vẫn là ngu phu
Không cười cũng không khóc
Cũng vẫn là ngu phu
Cười cười và khóc khóc
Nở thêm hoa cho đời
Trong khuôn mặt thế gian
Hoa vốn thiệt là hoa
Bông hoa của tư tưởng
Ôm chầm không thời gian
Thoát ra ngoài lưỡng biên
Vật chất và tốc độ
Vật chất và lưu chuyển
Ôi nụ cười giác ngộ
Ôi nụ cười quái đản
Ôi nụ cười mê hoặc
Ôi nụ cười từ bi!
(Bài thơ nằm trong Tập thơ Tiếng đập cánh loài chim lớn (NXB Lá Bối, 1967).
*
“Tiếng gầm sư tử lớn – Thức dậy giữa cõi mộng”
Giữa đại ngàn tư tưởng nhân loại, nơi ngôn từ thường chỉ như làn gió thoảng qua, bài thơ “Tiếng gầm sư tử lớn” của Thiền sư Thích Nhất Hạnh hiện ra như một tiếng gầm vang dội – không phải để làm kinh sợ, mà để đánh thức. Một tiếng gầm không mang âm thanh, mà thấm sâu như một cơn chấn động vào tận gốc rễ của nhận thức, một lời nhắc nhở từ bi rằng: chúng ta đang ngủ trong mộng tưởng của chính mình.
Bông hoa nở – và mây bay: Cánh cửa của duyên khởi
Bài thơ mở ra nhẹ như một đám mây, như cánh hoa tường vi. Những dòng đầu dường như chỉ là một khúc nhạc về thiên nhiên:
“Mây bay – mây trắng bay
Một đóa tường vi nở”
Nhưng rồi, từ chính sự trong trẻo ấy, thiền sư cho ta thấy một thực tại sâu hơn: cái đang bay vốn là mây, cái đang nở vốn là hoa – và không có cái này thì không có cái kia. Mây và hoa – chính là biểu tượng của duyên khởi, của cái có không nương nhau mà hiện, như người với người, như đời sống với khổ đau, như thực tại với nhận thức.
Và chỉ bằng vài câu thơ, Thiền sư không những giải cấu trúc khái niệm, mà còn phá tung “trận đồ” của ngôn từ cái mà chúng ta thường dựa vào để xác lập bản ngã, rồi từ đó sinh ra phân biệt, khổ đau, và huyễn tưởng.
Manas – thức vọng khởi của khổ đau và vi diệu
Từ những hình ảnh gần gũi như bàn tay, tế bào, máu huyết, Thiền sư bước vào tầng sâu của tâm thức – manas. Đó là “tôi nghĩ”, “tôi biết”, “tôi là” – cái tâm thức lén lút xây dựng một “cái tôi có thật”, để rồi từ đó sinh ra đau khổ.
“Có manas là vi diệu
Không manas cũng là vi diệu”
Và ngài cười, một nụ cười của người đã vượt thoát lưỡng biên, một nụ cười vượt khỏi “có” và “không”, “được” và “mất”. Đó là tiếng gầm thật sự – gầm lên để phá tan huyễn tưởng về bản ngã, về ngôn từ, về sự tồn tại tách biệt.
Nụ cười, giọt nước mắt – và trái tim vô biên
Trong dòng thơ dài như tiếng tụng thiền giữa đại ngàn, Thiền sư không từ chối thân xác hay cảm xúc. Ngài nói về nước mắt, về nụ cười, về dòng máu chưa khô, về hơi ấm của tình mẫu tử:
“Tôi dẫm chân khóc rống
Khi mẹ mất”
Đó không phải là lời than, mà là sự thừa nhận đầy nhân tính, rằng chúng ta đang sống trong hình hài này, với những cảm xúc có thật. Nhưng rồi, chính giữa đau khổ ấy, vẫn le lói một nụ cười – có thể là “quái đản”, có thể “mê hoặc”, nhưng cũng là nụ cười từ bi – vượt thoát khổ đau mà không phủ nhận nó.
Thông điệp của Thiền sư: Gầm lên để tỉnh, cười ra để sống
“Tiếng gầm sư tử lớn” không phải một bài thơ thông thường – nó là một thông điệp thiền quán hóa thành ngôn từ, là tiếng chuông đánh thức kẻ đang mộng du trong vòng xoáy danh từ, trong sự mê mờ về “cái tôi”, “cái của tôi”.
Trong một thế giới ngày càng bị lôi cuốn bởi sự phân biệt, đúng sai, phải quấy, bài thơ của Thiền sư nhắc ta quay lại với sự giản dị của hiện hữu, với thân thể đang thở, mắt đang nhìn, tim đang đập. Và trong tất cả những điều đó – có thể đầy dẫy nước mắt hay tiếng cười – vẫn có điều gì đó sâu thẳm, không tên gọi, không khái niệm, nhưng vô cùng sống động.
“Không cười cũng không khóc
Cũng vẫn là ngu phu
Cười cười và khóc khóc
Nở thêm hoa cho đời”
Đó chính là đạo lý cuối cùng – sống trọn, thương trọn, thấy trọn, và từ đó, mỗi hành động trở thành hoa, mỗi nụ cười trở thành giải thoát, và mỗi bài thơ – trở thành tiếng gầm sư tử lớn.
*
Thiền sư Thích Nhất Hạnh – Vị sứ giả của hòa bình và chánh niệm
Thiền sư Thích Nhất Hạnh (1926–2022) là một trong những vị thiền sư lỗi lạc và có ảnh hưởng sâu rộng nhất của Phật giáo thế giới đương đại. Không chỉ là một nhà tu hành, ngài còn là nhà văn, nhà thơ, học giả, nhà hoạt động xã hội vì hòa bình và người tiên phong đưa chánh niệm (mindfulness) vào đời sống thường nhật một cách thiết thực, giản dị nhưng sâu sắc.
Sinh ra tại tỉnh Thừa Thiên Huế, Việt Nam, Thích Nhất Hạnh xuất gia từ năm 16 tuổi tại chùa Từ Hiếu. Sau quá trình tu học và nghiên cứu, ngài đã có nhiều đóng góp quan trọng cho Phật giáo hiện đại, đặc biệt là trong việc kết nối tinh thần đạo Phật với các vấn đề xã hội. Ngài là người sáng lập Dòng tu Tiếp Hiện, Làng Mai (Plum Village) ở Pháp – một trung tâm tu học nổi tiếng thu hút hàng nghìn người từ khắp nơi trên thế giới.
Thông qua hàng trăm tác phẩm viết bằng tiếng Việt, tiếng Anh và các ngôn ngữ khác, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã truyền cảm hứng cho hàng triệu người về lối sống tỉnh thức, từ bi và không bạo lực. Những khái niệm như “hơi thở ý thức”, “thiền đi”, “an trú trong hiện tại” trở nên gần gũi với nhiều người nhờ vào cách giảng giải mộc mạc, giàu hình ảnh của ngài. Các tác phẩm tiêu biểu như Phép lạ của sự tỉnh thức, Đường xưa mây trắng, An lạc từng bước chân, Giận … là những cuốn sách được yêu mến và tìm đọc rộng rãi.
Trong suốt cuộc đời, ngài cũng là một nhà hoạt động tích cực cho hòa bình. Năm 1967, ngài được mục sư Martin Luther King Jr. đề cử Giải Nobel Hòa bình nhờ những nỗ lực vận động chấm dứt chiến tranh Việt Nam bằng con đường đối thoại và bất bạo động.
Ảnh hưởng và di sản của ngài không chỉ lan rộng trong cộng đồng Phật giáo mà còn được quốc tế ghi nhận sâu sắc. Năm 2011, khu tượng đài “Remember Them: Champions for Humanity” với diện tích khoảng 100m2 được đặt tại khu công viên Henry J. Kaiser Memorial, thành phố Oakland, tiểu bang California (Hoa Kỳ). Bức tượng điêu khắc chân dung 25 nhân vật nổi tiếng còn sống và đã qua đời, đã có cống hiến lớn lao vì quyền con người trên thế giới. Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một trong số những nhân vật được chọn để thể hiện trên tượng đài này, với những đóng góp của ngài cho công cuộc xây dựng hòa bình của nhân loại.
Vào ngày 11 tháng 4 năm 2025, thành phố New York đã chính thức đồng đặt tên đoạn đường West 109th Street (từ Riverside Drive đến Broadway) là “Thích Nhất Hạnh Way” để vinh danh Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Đây là nơi ngài từng sống và giảng dạy trong những năm 1960 khi theo học tại Union Theological Seminary và giảng dạy tại Đại học Columbia./.
Viên Ngọc Quý