Cảm nhận bài thi ca: Tiếng địch chiều thu – Thiền sư Nhất Hạnh

Tiếng địch chiều thu

(Một cảnh vườn đẹp đẽ xanh rờn có suối reo chim hót. Một vườn Thượng uyển nào đây, đủ cả muôn hoa muôn sắc. Thanh thanh gió nhẹ, một buổi chiều)

Lời suối reo:

Buồn bã quá, ta reo theo tiếng gió

Niềm thương đau mang lại tự ngàn xưa

Lâu quá rồi người xưa không trở lại

Để soi hình sáng rỡ giữa lòng ta !

Này im đi, hỡi tiếng địch chiều thu

Đừng réo rắt nối thêm lời sầu thảm

Trôi đi thôi hỡi ngàn mây ảm đạm

Vấn vương chi những ngọn núi xa mờ !

Hòa theo ta đi, tiếng dế chiều hôm,

Ta là suối không bao giờ dừng nghỉ

Sao cho quên những ngày xanh minh mị

Những chiều xưa vang tiếng nhạc ru hồn

Còn đâu đây những ngày tươi đẹp nọ,

Mà sinh ca vang đón ánh bình minh ?

Đâu những nàng cung nữ nhẹ nghiêng mình

Soi yểu điệu trên dòng ta sáng tỏ ?

Ôi còn đâu bóng người xưa luyến mộ

Nẻo đường xanh còn in dấu chân ai

Vào những chiều thấp thoáng bóng song hài ?

Thái tử ơi, ngài thấy không: cây cỏ,

Và suối, chim đều mong ngày hội ngộ

Buồn chia ly khiến muôn vật sầu tư

Reo ta reo nguồn ly hận ngàn thu…

Tiếng địch (réo rắt, nhưng đôi khi mơ hồ):

Reo ta reo nguồn ly hận ngàn thu…

Người xưa ơi có nghe trong sương lạnh

Có nghe không tiếng địch thoáng buồn thương

Thấy không ai ngàn mây sầu ủ rũ

Ngừng không bay, lắng tiếng gọi lên đường ?

Thổi lời thơ tận muôn phương xa lạ

Nhẹ nhàng đưa âm điệu lướt không gian

Gió chiều thu ướp lòng người tơi tả,

Và vi vu theo điệp khúc trường giang…

Ca lên chim ! như những chiều xuân cũ

Cho tan đi những buồn lạnh vấn vương

Ta ước mong một ngày mai đoàn tụ

Cho chân mây cùng mặt nước lên hường !

Nở đi hoa ! như những bình minh thắm !

Khoe tươi đi, cành hồng ướt sương thu

Chồi huệ trắng, nở đi, đừng ủ rũ,

Muốn để dành hương ấy đến ngày mô ?

Ngày xa xôi…hoa ơi ! xa xôi lắm

Hoa chờ mong, giờ đây chưa muốn nở

Nhưng hoa ơi ! ngươi sẽ héo vàng khô

Và một hôm lạnh lẽo khói sương mờ !

Thái tử ơi, giờ đây trong sương lạnh

Ngài nghe không tiếng địch thoáng buồn thương ?

Thấy không ai, ngàn mây sầu ủ rũ

Ngừng không bay, lắng tiếng gọi lên đường ?

(Tiếng địch véo von, nhỏ dần rồi im bặt. Da Du ra, mắt nhìn về phương xa. La Hầu La đi sau, cầm chéo áo mẹ)

Tiếng chim ca:

Nàng đã ra viếng chúng ta, ngàn cây hỡi !

Lại đây nàng, ngồi trên phiến đá hoa !

Ríu rít chim, ca ngợi nắng chan hòa

Ta hát lên cho nàng vơi sầu khổ !

Cảm động quá, đôi mắt nàng đẫm lệ,

Thật não nùng ! nhìn chi phía xa xa ?

Năm tháng sầu sao cứ mãi không qua

Buồn trĩu nặng cho đến hồn cây cỏ !

Chiếc áo nhung xưa ! nay nàng đã bỏ !

Mộng ngày xanh ! còn đâu nữa nàng ơi !

Lệ ngọc tuôn từ đôi mắt sáng ngời,

Bi cảm lắm, xin nàng vui đôi chút !

Tiếng suối (tha thiết):

Ra thăm luôn, nàng ơi ! vườn năm cũ,

Xem hoa đi, như những buổi chiều xưa

Này nàng trông, muôn cây đang ủ rũ

Chờ ở ai, chỉ một chút hương thừa !

Lại đây ngồi nhìn mây,

Và hát lên như những ngày xưa nữa.

Reo ta reo cho nhẹ bớt ưu phiền

Reo cho quên niềm thổn thức liên miên

Reo cho quên những tiếng lòng mong nhớ.

Nàng ơi,

Ai năm xưa cũng mỗi chiều tương tự,

Cùng nàng đi, đã dạo khắp vườn hoa ?

Ai năm xưa với tâm hồn rộng mở

Cho muôn loài một cảm mến bao la ?
Trôi ta trôi ! Reo ta reo ! dòng suối bạc

Cuốn phăng đi đá sỏi của lòng ta !

Tiếng chim:

Ca ta ca ! Vui lên đi ! tung muôn ngàn sóng nhạc

Ca ta ca ! Vui lên đi ! Để ta ca !

Da Du (rất thong thả):

Nước non ơi ! chiều đến, tiếng ngân nga

Thời tươi đẹp vang từ trong ký ức

Ta mong quên những ngày thu ray rứt

Nỗi niềm ta, hoa có rõ không hoa ?

(ngồi xuống trên phiến đá)

Ngồi xuống đây con hỡi La Hầu La !

Mẹ muốn nhớ lại thời xưa hương ngát

Con có biết bây giờ đây luân lạc

Về phương nao, bóng Hạnh Phúc xa vời ?

Biết không con, ở tận một phương trời

Nào xa thẳm, cha con đà biệt tích

Ước mong Người, một ước mong tuyệt đích:

“Cứu quần sanh tìm đạo lý xinh tươi  “

Mà ngày hẹn huy hoàng bao giờ mới đến, con ơi ?

Con có nhớ những ngày buồn trong cung lạnh

Một hôm kia hỏi mẹ: “Cha con đâu ? “

Đau lòng chưa, con hỡi ! suốt canh thâu

Mẹ đã khóc, một mình riêng thổn thức.

Con ơi, những lúc mà lòng mẹ vui vui

Là những lúc nhìn con nô đùa cùng bao nhiêu vương tử

Nhưng rồi vẫn đăm chiêu niềm tư lự

Chẳng bao giờ phiền muộn được vơi nguôi.

Biết không con, một chiều xuân năm cũ

Một đêm trăng, cha con bỏ vương cung

Ra đi…chàng ra đi không hẹn ngày trở lại

Để niềm THƯƠNG lan rộng đến muôn lòng !

Rồi một sáng tinh sương, Xa Nặc về, nét mặt u sầu vô vọng,

Tin biệt ly như tiếng sét ngang đầu

Cả hoàng cung chìm lắng trong khổ đau

Một vương quốc đang gục đầu thương nhớ.

Còn ai nữa để cảm thông lao khổ ?

Thái tử ơi, Ngài có hiểu cho không ?

Bao người sầu, chung một nỗi nhớ nhung

Ngài đi đâu, để đây niềm hiu quạnh ?

(Tiếng địch lại nổi lên, văng vẳng trong gió lạc)

Người xưa ơi, có nghe trong sương lạnh

Có nghe không tiếng địch thoáng buồn thương ?

Thấy không ai, ngàn mây sầu ủ rũ

Ngừng không bay, lắng tiếng gọi lên đường ?

Thổi lời thơ tận muôn phương xa lạ

Nhẹ nhàng đưa…âm điệu lướt không gian,

Gió chiều thu ướp lòng người tơi tả,

Và vi vu theo điệp khúc trường giang…

Lời gió reo:

Thôi đi thôi, đừng kể lể bi quan,

Nhọc quá rồi ! đừng ôm lòng sầu não !

Để ta đi, tìm ra nguồn chân đạo,

Đem về đây cho tất cả cuộc đời ! Da Du (vẫn chậm rãi):

Phụ vương sầu, di mẫu khóc không thôi,

Hy vọng hết, muôn dân buồn áo não…

Rồi từ đấy vắng tin người hiểm mạo,

Bỏ xa hoa và tôn quý cao sang,

Để ra đi, tìm lấy ánh hào quang,

Nguồn đạo lý soi đường cho nhân thế.

Quên sao được chàng ơi, khi tiếng lòng kể lể,

Một đêm trăng, ngài bảo: Chớ sầu thương…

Nếu một mai, vì chí nguyện, ta lên đường,

Em sẽ đặt tình yêu vào muôn loại !

Tình thương hẹp gây lo âu, sợ hãi,

Chóng tàn phai theo gió lạnh thời gian

Em hãy nuôi một tình thương rộng lớn chẳng phai tàn

Để san sẻ cho muôn loài muôn vật.

Rồi sẽ thấy lòng tràn đầy một nguồn vui chân thật.

Thái tử ơi, còn văng vẳng bên tai,

Lời ngọc vàng đã rung động hồn ai

Thiếp cảm thấy cả nguồn sinh lực ấy…

Ngài biết không ? nhạc lòng không rung dậy

Ngọc vàng xưa, thiếp đã bỏ từ lâu,

Sống làm sao trong muôn sắc muôn mầu

Khi nghĩ đến nơi hang sâu núi thẳm ?

Ôi hình ảnh khuất xa ngàn vạn dặm

Đây cuộc đời: ly biệt là thương đau…

Tìm đâu đây nguồn an ủi nhiệm mầu

Để xóa bỏ những bóng hình sợ hãi…

Hiểu không con ? La Hầu La thơ dại ?

Như ngày xưa mẹ bảo: “Cha đi xa…

Đi xa lắm con ơi

non nước vẫn bao la “

(Nàng lấy khăn lau mắt và vuốt tóc con khi La Hầu La thấy mẹ khóc cũng khóc theo)

La Hầu La:

Vào cung đi mẹ…Thôi ! con buồn quá,

Đi chơi, sao mẹ khóc mãi thế kia ?

Mẹ bảo ra thăm vườn hoa cũ

Để đem con đi dạo khắp cơ mà ?

Cha con đi, cha con sẽ về đây, mẹ ạ

Con ít buồn, sao mẹ lại buồn nhiều ?

Đứng lên đi, vui lên đi, mẹ nhé !

Hái hoa cho con, xâu kết lại vòng hoa

Khóc nhiều thế, con buồn, mẹ ạ.

Da Du (cười buồn):

Ừ, vui đi, mẹ không khóc nữa đâu,

Sương xuống rồi, ánh nắng tắt đã lâu,

Chim về tổ, con ơi ! ta về tổ !

Nín đi con, kìa vừng trăng mới lộ,

Ở non cao, mờ tỏa ánh dịu vàng.

Tiếng gió:

Và xa kia chắc Thái tử mơ màng

Nhìn trăng sáng với cánh rừng u tịch

Lâu lắm rồi, người xưa đà biệt tích,

Thành công chăng, hay thất bại ? Ngài ơi ?

Tiếng địch:

Thổi lời thơ tận muôn phương xa lạ

Nhẹ nhàng đưa âm điệu lướt không gian

Gió chiều thu ướp lòng người tơi tả

Và vi vu theo điệp khúc trường gian…

(Lời thơ vừa dứt thì di mẫu Kiều Đàm vừa ra đến sau lưng Da Du. Bà nhẹ nhàng đặt tay lên vai nàng. Quay lại thấy bà, nàng cúi đầu)

Bà Kiều Đàm:

Đêm xuống rồi, sương sa nhiều, lạnh lắm

Đi vào con ! than thở những chi chi

Hễ thấy con, là thấy cả sầu bi

Ta thấy vắng, đi tìm con từ nãy.

Da Du:

Kính lạy Mẹ, nhọc lòng người biết mấy

Ra tìm con tận mãi cuối vườn trăng…

La Hầu La (mách):

Dạ thưa bà mẹ cháu khóc vừa xong !

Da Du (vuốt tóc con mắng yêu):

Này đừng láo, La Hầu La con nhé !

La Hầu La (nhìn mẹ bằng cặp mắt ngây thơ):

Thế không khóc mới rồi sao, hử mẹ ?

(nhìn bà phân trần)

Mới lau xong nước mắt thì bà ra,

Bà ơi, sao mẹ cháu khóc luôn, mà…

(rưng rưng nước mắt)

Bà Kiều Đàm (cầm tay cháu kéo lại):

Thật ư cháu ? Lại gần đây bà bảo !

Cháu của bà chắc không hề nói láo,

Nhưng mà này, cả cháu cũng khóc theo

Có phải không ?

La Hầu La (gật):

Thưa bà phải ! khóc nhiều…

Bà Kiều Đàm (xoa đầu cháu):

Thì thôi chứ ! Bây giờ xem trăng sáng

Cháu vui đi, kìa vầng trăng xán lạn !

(nhìn nàng với cặp mắt đầy thương hại và yêu mến)

Này con ơi, ai không khỏi sầu thương,

Nhưng…thời gian đâu đến lúc cùng đường,

Con khổ thế, để lòng ta thêm khổ !…

Da Du (sụt sùi):

Xá tội con, muôn ngàn ơn đức độ !

Đã vô tình làm mẹ phải buồn lòng

Nhưng mẹ ơi, sao tháng ngày trôi mãi

Chỉ đem về nguồn cảm khái mênh mông !

(im lặng)

Kính lạy mẹ, bây giờ người lạc lõng

Phương trời nào, ở nơi chốn xa xôi…

Bà Kiều Đàm (cũng khóc):

Tất Đạt Đa, con đã đến đâu rồi…

Tìm chánh đạo hay tìm nơi cực khổ ?

Con ra đi mà bao người luyến mộ,

Bao tâm hồn theo rõi bước chân con

Mắt phụ vương lệ xóa đã hao mòn,

Ngài đã khóc nhiều đêm vì nhớ tiếc,

Mà phải chăng đã là ngày vĩnh biệt,

Có nên mong ngày hội ngộ, con ơi ?

Da Du (khóc òa):

Có nên mong ngày hội ngộ, ngài ơi ?

Tiếng địch:

Người xưa ơi, có nghe trong sương lạnh,

Có nghe không tiếng địch thoáng buồn thương

Thấy không ai, ngàn mây sầu ủ rũ,

Ngừng không bay, lắng tiếng gọi lên đường ?

Thổi lời thơ tận muôn phương xa lạ,

Nhẹ nhàng đưa âm điệu lướt không gian

Gió chiều thu ướp lòng người tơi tả,

Và vi vu theo điệp khúc trường giang…

Da Du (tiếp):

Có những đêm trăng sáng tỏ mơ màng

Con nhìn thấy bóng Ngài bên khóm lá

Và mừng quá, kêu lên trong hơi thở

Nhưng hỡi ơi, chỉ là bóng sương trăng…

Có nhiều khi trong ánh nến sáng trưng

Con cảm thấy một cái gì tan vỡ,

Như bóng tối chứa đầy niềm lo sợ…

Tiếng dế (vẳng lên):

Rên lên đi, ta khóc giúp cho người,

Ánh trăng kia là nước mắt không vơi,

Tiếng địch ấy là nỗi lòng thổn thức.

Ta đang khóc cả trần gian u uất,

Muôn ngàn thu còn mãi vết tang thương

Lệ chưa vơi, đau khổ vẫn đương còn

Đẫm ướt mãi bức tranh đời hoen ố.

Gió reo:

Ta làn gió lướt ánh hằng sáng tỏ

Chở đau thương nhân loại đến ngàn nơi

Để đi tìm một chốn tạm nghỉ ngơi

Nhưng thất vọng, chưa bao giờ tìm thấy !

Ta đã ấp bao cõi lòng run rẩy

Đã từng mang bao u uất vấn vương

Ôi nhân sinh ! Ôi thế cuộc vô thường !

Nhân loại mãi đắm chìm trong biển lệ !

Ta ao ước vì ngàn muôn thế hệ

Tìm cho ra ánh đạo sáng nhiệm mầu

Mong một ngày nhân loại hết thương đau

Xây cuộc sống trên thanh bình hạnh phúc

Ta không muốn khổ đau làm ngã gục

Trên cuộc đời cả nhân loại mến thương.

Bà Kiều Đàm:

Người ra đi, theo tiếng gọi lên đường,

Với chí nguyện cao siêu và rộng lớn,

Phải cố gắng cắt những dây tình cảm

Những buộc ràng, để có thể bay cao

Người ra đi mà vẫn nát tâm bào,

Con phải thấy là hy sinh cao cả…

Da Du ( lau nước mắt):

Con biết thế từ lâu rồi mẹ ạ,

Cố quên đi để tâm trí thảnh thơi,

Nhưng hỡi ơi, gan ruột vẫn tơi bời,

Không ngăn nổi tiếng lòng đang thổn thức.

Tiếng gió:

Vui lên đi ! Hãy đem nguồn sinh lực

Tưới lên cho vạn vật hết u sầu.

Ta nghiêng mình trước mọi nỗi khổ đau

Và thông cảm mối sầu thương vạn kỷ.

Da Du:

Con xin hứa dứt muôn dòng sầu luỵ

Để một lòng tin tưởng ở ngày mai

(ôm con vào lòng)

Thái tử đi vì nặng cứu muôn loài,

Ý chí ấy là vô biên lực lượng.

Trần thế kia còn bao nhiêu vất vưởng

Đang đợi ngài một ánh sáng thoát ly

Nguyện từ nay xin bỏ hết sầu bi,

Phương xa lạ, ngài an tâm tìm đạo !

Tiếng gió:

Phải mạnh mẽ vượt qua cơn vũ bão

Của tiếng lòng, hỡi bao kẻ sầu bi !

Ôi cao siêu mầu nhiệm chí nam nhi

Thân gió bụi nguyền xông pha sương tuyết

Thân gió bụi nguyền quên bao thương tiếc,

Cả tình yêu, cả tôn quí ngai vàng !

(Một thị nữ đã quỳ xuống bên gối)

Thị nữ:

Trời khuya rồi, gió lạnh thổi sương ngàn,

Xin lệnh mẫu và nương nương vào nghỉ.

Da Du (nhìn dì):

Thưa Mẹ, khuya rồi, xin Người vào nghỉ.

Bà Kiều Đàm (nhìn con):

Ừ, khuya rồi, con đem La Hầu La vào nghỉ

Kẻo sương trăng lạnh lẽo lắm, không nên.

(Ba người đi trước, thị nữ theo sau. Tiếng gió vi vu)

Tiếng gió:

Trăng khuya ơi, trần giới vẫn liên miên,

Ngàn cây sáng, ánh trăng đùa nhấp nháy

Nhè nhẹ thoảng trong hồn người, sống dậy

Một niềm vui êm đẹp đượm ước nguyền.

(Bốn câu vừa dứt thì bốn người đã khuất sau bóng cây…Tiếng địch văng vẳng trên không trung)

Thổi lời thơ tận muôn phương xa lạ,

Nhịp nhàng đưa âm điệu lướt không gian,

Ánh trăng thu reo mừng trong kẽ lá

Và vi vu theo điệp khúc trường giang…

Mau lên đi, chậm rãi, ánh trăng tan !

Dồn dập sóng, tiếng cõi lòng thúc dục

Mau lên đi, với trọn niềm thao thức

Người, người ơi ! Vũ trụ đang mê man…

(Tiếng địch nhỏ dần, xa dần, rồi cuối cùng im bặt, trong khi ánh trăng dịu dàng đan qua kẻ lá những sợi tơ trăng lấp la lấp lánh)

*

Tiếng Địch Chiều Thu – Bản Trường Ca Của Tình Thương và Giác Ngộ

Trong những vần thơ ngân vang giữa chiều thu, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã viết nên một khúc kệ đầy xúc cảm, mang tựa đề Tiếng địch chiều thu. Đó không chỉ là một bài thơ hay, mà là bản trường ca của những trái tim ly biệt, của một hành trình tìm về chân lý trong bóng tối vô thường.

Với bối cảnh là một buổi chiều thu lặng lẽ trong vườn thượng uyển, bài thi kệ mở ra như một bức tranh cổ điển sống động, nơi thiên nhiên cũng biết thở than, biết buồn vui theo nỗi lòng con người. Tiếng suối reo không còn là âm thanh thuần túy của tự nhiên, mà trở thành lời kể lể nghẹn ngào về cuộc chia ly giữa Thái tử Tất Đạt Đa và vương phi Da Du. Tiếng địch trong chiều thu – réo rắt, mơ hồ – như tiếng vọng của một tâm hồn xa xăm, gửi gắm nỗi lòng của những người ở lại, những người chờ đợi trong lặng câm và khắc khoải.

Tác phẩm dàn trải nỗi buồn của vương phi Da Du – người phụ nữ không chỉ mất đi người mình yêu mà còn mất đi một mái ấm trọn vẹn, mất đi sự hiện diện của niềm hạnh phúc từng có. Da Du không oán trách, chỉ lặng lẽ đau – nỗi đau dịu dàng, chân thực, không nhuốm màu bi kịch, mà đầy nhân bản. Và trong chính nỗi đau đó, bà bắt đầu thấu hiểu: Tình yêu đích thực là tình yêu có thể tan chảy thành tình thương bao la cho muôn loài.

La Hầu La – đứa trẻ hồn nhiên cầm vạt áo mẹ, không hiểu hết mọi chuyện nhưng bằng linh cảm, cũng rưng rưng khóc theo – chính là ánh sáng non tơ của tương lai. Bé là biểu tượng cho sợi dây gắn kết giữa những gì đã qua và những điều đang tới, giữa tình cảm gia đình và con đường xuất thế của người cha.

Điểm đặc biệt ở bài thi kệ này là mọi yếu tố trong thiên nhiên – chim, suối, gió, hoa, ánh trăng – đều là những nhân vật biết buồn, biết yêu, biết nhớ, và biết hy vọng. Tất cả như hợp xướng một bài ca về nỗi niềm nhân thế, phản chiếu sâu sắc triết lý thiền học: mọi vật đều có Phật tánh, đều có khả năng cảm thấu và hiển bày chân lý nếu tâm ta đủ lặng để lắng nghe.

Nhưng bài thơ không chỉ là một bản buồn. Trong tiếng địch, tiếng suối, tiếng chim, tiếng gió… vẫn có đó những lời mời gọi vượt thoát: hãy “quên đi những ngày xanh minh mị”, hãy “ca lên chim!”, hãy “vui lên đi!”. Chính những thanh âm ấy – dù réo rắt – không muốn ta đắm chìm mãi trong khổ đau, mà nhắc ta rằng: khổ đau là cánh cửa, và tình thương là đường đi.

Thông điệp mà Thiền sư Thích Nhất Hạnh gửi gắm không nằm ở sự nuối tiếc, mà ở sự chuyển hóa. Ly biệt không phải để kéo theo thương đau bất tận, mà để mở ra một con đường lớn hơn – con đường giải thoát không chỉ cho một người, mà cho tất cả.

Tiếng địch chiều thu là tiếng lòng của một người phụ nữ, một người mẹ, một người vợ – nhưng đồng thời là tiếng nói của mọi trái tim biết yêu thương. Qua nỗi buồn rất người ấy, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã mời gọi chúng ta đi xa hơn tình riêng, để bước vào miền tỉnh thức. Bởi “tình thương hẹp gây lo âu, sợ hãi – chóng tàn phai theo gió lạnh thời gian”.

Cuối cùng, bài thơ khép lại không phải bằng tiếng khóc, mà bằng hình ảnh vầng trăng dịu dàng đang mọc lên sau rặng núi. Trong ánh trăng ấy, có niềm tin lặng lẽ rằng – người xưa rồi sẽ trở lại, không phải để nối lại chuyện tình dang dở, mà để mang về một ngọn lửa vô úy – soi rọi những tâm hồn đang bước qua đêm dài của khổ đau.

Và tiếng địch ấy… vẫn vi vu… theo điệp khúc trường giang.

*

*

Thiền sư Thích Nhất Hạnh – Vị sứ giả của hòa bình và chánh niệm

Thiền sư Thích Nhất Hạnh (1926–2022) là một trong những vị thiền sư lỗi lạc và có ảnh hưởng sâu rộng nhất của Phật giáo thế giới đương đại. Không chỉ là một nhà tu hành, ngài còn là nhà văn, nhà thơ, học giả, nhà hoạt động xã hội vì hòa bình và người tiên phong đưa chánh niệm (mindfulness) vào đời sống thường nhật một cách thiết thực, giản dị nhưng sâu sắc.

Sinh ra tại tỉnh Thừa Thiên Huế, Việt Nam, Thích Nhất Hạnh xuất gia từ năm 16 tuổi tại chùa Từ Hiếu. Sau quá trình tu học và nghiên cứu, ngài đã có nhiều đóng góp quan trọng cho Phật giáo hiện đại, đặc biệt là trong việc kết nối tinh thần đạo Phật với các vấn đề xã hội. Ngài là người sáng lập Dòng tu Tiếp Hiện, Làng Mai (Plum Village) ở Pháp – một trung tâm tu học nổi tiếng thu hút hàng nghìn người từ khắp nơi trên thế giới.

Thông qua hàng trăm tác phẩm viết bằng tiếng Việt, tiếng Anh và các ngôn ngữ khác, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã truyền cảm hứng cho hàng triệu người về lối sống tỉnh thức, từ bi và không bạo lực. Những khái niệm như “hơi thở ý thức”, “thiền đi”, “an trú trong hiện tại” trở nên gần gũi với nhiều người nhờ vào cách giảng giải mộc mạc, giàu hình ảnh của ngài. Các tác phẩm tiêu biểu như Phép lạ của sự tỉnh thức, Đường xưa mây trắng, An lạc từng bước chân, Giận … là những cuốn sách được yêu mến và tìm đọc rộng rãi.

Trong suốt cuộc đời, ngài cũng là một nhà hoạt động tích cực cho hòa bình. Năm 1967, ngài được mục sư Martin Luther King Jr. đề cử Giải Nobel Hòa bình nhờ những nỗ lực vận động chấm dứt chiến tranh Việt Nam bằng con đường đối thoại và bất bạo động.

Ảnh hưởng và di sản của ngài không chỉ lan rộng trong cộng đồng Phật giáo mà còn được quốc tế ghi nhận sâu sắc. Năm 2011, khu tượng đài “Remember Them: Champions for Humanity” với diện tích khoảng 100mđược đặt tại khu công viên Henry J. Kaiser Memorial, thành phố Oakland, tiểu bang California (Hoa Kỳ). Bức tượng điêu khắc chân dung 25 nhân vật nổi tiếng còn sống và đã qua đời, đã có cống hiến lớn lao vì quyền con người trên thế giới. Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một trong số những nhân vật được chọn để thể hiện trên tượng đài này, với những đóng góp của ngài cho công cuộc xây dựng hòa bình của nhân loại.

Vào ngày 11 tháng 4 năm 2025, thành phố New York đã chính thức đồng đặt tên đoạn đường West 109th Street (từ Riverside Drive đến Broadway) là “Thích Nhất Hạnh Way” để vinh danh Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Đây là nơi ngài từng sống và giảng dạy trong những năm 1960 khi theo học tại Union Theological Seminary và giảng dạy tại Đại học Columbia./.

Viên Ngọc Quý

Bạn có thể chia sẻ bài viết qua:

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *