Cảm nhận bài thơ: Cầu – Nguyễn Bính

Cầu

 

Người đời xưa nghĩ cách
Bắc chiếc cầu đầu tiên.
Hẳn không ngoài ý muốn
Cho đôi bờ nối liền.

Người đời sau bắt chước
Bắc những cầu qua sông.
Hẳn cùng chung ý muốn
Cho tiện đường giao thông.

Tất cả đời sau, trước,
Tất cả người năm châu,
Cầu chỉ một tác dụng,
Một định nghĩa như nhau.

Cầu nghĩa là sum họp,
Trái nghĩa với lìa tan.
Cầu để qua, để lại,
Không để cách, để ngăn.

Sớm, chiều ta xuôi ngược,
Nam, Bắc ta đi về.
Tay cầu ta vịn, nắm,
Lòng cầu ta ngựa, xe.

Cầu gợi niềm ấm áp,
Cầu mang tình yêu thương.
Thân cầu là gạch nối,
Đẹp bài thơ Quê hương.

Có người thấy đàn kiến
Ngoi vũng nước bên thềm.
Đã bắc cầu cọng rạ,
Cho kiến lấy đường lên.

Quạ vốn loài chim dữ,
Cũng thương tình cách ngăn
Đã bắc cầu Ô Thước,
Nối hai bờ sông Ngân.

Chỉ những bọn giặc, cướp,
Những quân uống máu người,
Mới chia sông một nửa,
Mới xẻ cầu làm đôi.

Còn gì trống lạnh hơn,
Cầu chẳng người qua lại?
Còn gì oán giận hơn,
Kẻ rào cầu, rấp lối?

Hỡi các bác thợ đá!
Hỡi anh chị rải đường!
Hỡi bạn rèn, bạn mộc!
Đã dựng cầu Hiền Lương!

Có dè đâu Chợ Huyện
Nay vắng phường Cát Sơn?
Dè đâu có thằng Diệm
Đương cắt đôi quê hương,
Đương ngăn cầu, chặn nước,
Chia Nam, Bắc hai đường?
Bảy nhịp cầu đứng sững,
Mang nặng bao đau thương…
Tháng ngày cầu lặng lẽ
Soi bóng lạnh sông trong.
Thấy mình vẫn liền nhịp,
Thấy nước vẫn liền dòng.
Ngó miền Nam, miền Bắc,
Ngó phương Tây, phương Đông.
Thấy lòng người đỏ rực
Đòi thống nhất non sông.

Lòng cầu không đứt đoạn,
Lòng sông không tách rời.
Sông với cầu còn thế,
Huống chi là lòng người!

Cầu vững cánh tay sắt,
Đứng gác giữa sông dài.
Không cho bọn đao phủ,
Chém Đất nước làm hai.


Tháng 7-1960

*

Cây cầu và trái tim không thể chia đôi

Trong lịch sử dân tộc, có những biểu tượng vượt lên trên mọi hình ảnh vật chất, để trở thành linh hồn của thời đại. Hiền Lương – một cây cầu nhỏ bắc qua dòng sông Bến Hải – đã từng là ranh giới chia đôi đất nước. Nhưng cũng chính nơi đó, một biểu tượng lớn hơn được hình thành: cây cầu của nỗi đau, của tình thương và của khát vọng thống nhất thiêng liêng. Nguyễn Bính, trong bài thơ “Cầu”, đã không chỉ viết về một công trình, mà viết về một nỗi niềm dân tộc – đầy cảm xúc, sâu sắc, và lặng lẽ rực cháy.

Bài thơ mở đầu giản dị, như một câu chuyện kể:

Người đời xưa nghĩ cách
Bắc chiếc cầu đầu tiên.
Hẳn không ngoài ý muốn
Cho đôi bờ nối liền.

Từ thuở xa xưa, cây cầu được tạo nên để vượt qua ngăn cách. Bằng giọng thơ hiền hậu, Nguyễn Bính đưa người đọc trở về với ý nghĩa nguyên sơ, nhân bản của chiếc cầu: “cho đôi bờ nối liền.” Dẫu cầu tre, cầu gỗ, hay cầu bê tông cốt thép, tự thân nó là biểu tượng của sự kết nối, của sự gắn bó, của mong muốn không để gì bị chia lìa.

Từ chiếc cầu đầu tiên trong lịch sử, đến cây cầu Hiền Lương của đất nước hôm nay, thi sĩ Nguyễn Bính viết:

Cầu nghĩa là sum họp,
Trái nghĩa với lìa tan.
Cầu để qua, để lại,
Không để cách, để ngăn.

Một định nghĩa tưởng như quá đơn giản, nhưng trong thời khắc lịch sử ấy – khi cầu bị cắt đôi, khi đất nước bị chia cắt – thì những câu thơ ấy vang lên như một lời phản kháng và một bản tuyên ngôn. Cầu là để đoàn tụ, chứ không phải để phân ly. Cầu là để ôm lấy nhau, không phải để dựng lên bức tường.

Tất cả đời sau, trước,
Tất cả người năm châu,
Cầu chỉ một tác dụng,
Một định nghĩa như nhau.

Như một chân lý, nhà thơ khẳng định: ở đâu trên trái đất này, cầu cũng chỉ mang một ý nghĩa – nối liền, không chia cách. Vậy mà, có một kẻ đã làm trái điều ấy:

Chỉ những bọn giặc, cướp,
Những quân uống máu người,
Mới chia sông một nửa,
Mới xẻ cầu làm đôi.

Những lời thơ lúc này không còn nhẹ nhàng. Chúng hóa thành tiếng gào phẫn nộ, khi Nguyễn Bính nhắc tới những kẻ “rào cầu, rấp lối”, những kẻ cắt đất nước làm hai, chia lìa bao gia đình, bao trái tim – không phải để giữ gìn điều gì, mà chỉ vì ích kỷ, bạo quyền, và sự phản bội Tổ quốc.

Hỡi các bác thợ đá!
Hỡi anh chị rải đường!
Hỡi bạn rèn, bạn mộc!
Đã dựng cầu Hiền Lương!

Một tiếng gọi đồng bào, đầy cảm phục và tri ân. Những người lao động ấy không chỉ dựng lên một cây cầu vật chất, mà dựng lên một biểu tượng vững chãi của lòng dân, của khát vọng không cam chịu chia cắt.

Nhưng cũng chính nơi đó, cây cầu phải chứng kiến điều tàn nhẫn:

Có dè đâu Chợ Huyện
Nay vắng phường Cát Sơn?
Dè đâu có thằng Diệm
Đương cắt đôi quê hương…

Sự chia cắt không chỉ là một đường ranh, mà là vết thương chảy máu trong lòng dân tộc. Nguyễn Bính không ngại gọi tên. Ông chỉ rõ kẻ phản bội, kẻ đang “ngăn cầu, chặn nước”, kẻ khiến “bảy nhịp cầu đứng sững / Mang nặng bao đau thương”.

Nhưng giữa nỗi đau đó, ánh sáng của bài thơ bắt đầu hiện ra:

Lòng cầu không đứt đoạn,
Lòng sông không tách rời.
Sông với cầu còn thế,
Huống chi là lòng người!

Nguyễn Bính đã đi một bước rất sâu về tư tưởng: dù cầu bị chia đôi, lòng người vẫn liền mạch. Dù sông bị chắn, nước vẫn chảy một dòng. Đó là tuyên ngôn của một dân tộc không thể bị chia cắt. Vùng đất có thể bị tạm thời chia đôi, nhưng trái tim Việt Nam, ý chí Việt Nam – vẫn là một, như dòng máu đỏ trong cơ thể.

Và khổ thơ cuối – như một dấu son rực đỏ:

Cầu vững cánh tay sắt,
Đứng gác giữa sông dài.
Không cho bọn đao phủ,
Chém Đất nước làm hai.

Cây cầu không chỉ là công trình – nó là biểu tượng của kháng cự, của nhân phẩm, của kiêu hãnh dân tộc. Bằng “cánh tay sắt”, cầu Hiền Lương đứng đó – canh giữ cho một Tổ quốc không thể bị chia đôi.

Bài thơ “Cầu” của Nguyễn Bính là một trong những bài thơ chính luận xúc động và đầy sức sống nhất của thi sĩ – người thường được biết đến với những vần thơ lục bát dịu dàng. Ở đây, ông không dịu dàng, mà thẳng thắn, quyết liệt, và vẫn chan chứa yêu thương. Bởi dù lên án sự chia cắt, ông không gieo oán thù, mà luôn khơi dậy khát vọng đoàn tụ.

Giữa lòng một dân tộc bị chia đôi, Nguyễn Bính đã cất tiếng từ cây cầu:
Cầu là để nối liền.
Cầu là trái tim không thể chia hai.
Cầu là tình người, tình quê, tình nước –
mãi mãi nguyên vẹn, mãi mãi không rạn nứt.

*

*

Nguyễn Bính (1918-1966) là một trong những nhà thơ nổi bật của phong trào Thơ mới Việt Nam. Ông được biết đến với phong cách mộc mạc, giản dị, đậm chất dân gian và mang hồn quê sâu sắc. Thơ Nguyễn Bính thường gắn với hình ảnh thôn quê, con người bình dị và những chuyện tình duyên đầy cảm xúc, thể hiện một tâm hồn tha thiết với truyền thống. Một số bài thơ tiêu biểu như Lỡ bước sang ngang, Tương tư, Chân quê… đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bạn đọc nhiều thế hệ.

Viên Ngọc Quý

Bạn có thể chia sẻ bài viết qua:

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *