Viếng hồn trinh nữ
Chiều về chầm chậm trong hiu quạnh,
Tơ liễu theo nhau chảy xuống hồ,
Tôi thấy quanh tôi và tất cả
Kinh thành Hà Nội quấn khăn sô.
Nước mắt chạy quanh, tình thắt lại,
Giờ đây tôi khóc một người về,
Giờ đây tôi thấy hồn cay đắng,
Như có ai mời chén biệt ly.
Sáng nay vô số lá vàng rơi,
Người gái trinh kia đã chết rồi.
Có một chiếc xe màu trắng đục,
Hai con ngựa trắng bước hàng đôi,
Đem đi một chiếc quan tài trắng,
Và những vòng hoa trắng lạnh người.
Theo bước những người khăn áo trắng,
Khóc hồn trinh trắng mãi không thôi.
Để đưa nàng đến nghĩa trang này,
Nàng đến đây rồi ở lại đây.
Ờ nhỉ! Hôm nay là mấy nhỉ,
Suốt đời tôi nhớ mãi hôm nay…
Sáng nay, sau một cơn mưa lớn,
Hà Nội bừng lên những nắng vàng.
Có những cô nàng trinh trắng lắm,
Buồn rầu theo vết bánh xe tang.
Từ nay xa cách mãi mà thôi,
Tìm thấy làm sao được bóng người,
Vừa mới hôm nào còn thẹn thẹn.
Tay cầm sáp đỏ đặt lên môi.
Chiếc áo màu xanh tựa nước hồ,
Nàng vừa may với gió đầu thu.
Gió thu còn lại bao nhiêu gió,
Chiếc áo giờ đây ở dưới mồ!
*
Chắc hẳn những đêm như đêm qua,
Nàng còn say mộng ở chăn hoa.
– Chăn hoa ướp một trời xuân sắc –
Đến tận tàn canh, rộn tiếng gà.
Chắc hẳn những đêm như đêm kia,
Nửa đêm lành lạnh gió thu về.
Nàng còn thao thức ôm cho chặt
Chiếc gối nhung mềm giữa giấc mê.
Nhưng sáng hôm nay nàng lặng im,
Máu đào ngừng lại ở nơi tim.
Mẹ già xé vội khăn tang trắng,
Quấn vội lên đầu mấy đứa em.
Người mẹ già kia tuổi đã nhiều,
Đã từng đau khổ biết bao nhiêu!
Mà nay lại khóc thêm lần nữa,
Nước mắt còn đâu buổi xế chiều?
Những đứa em kia chưa khóc ai,
Mà nay đã khóc một người rồi!
Mà nay trên những môi ngoan ấy,
Chả được bao giờ gọi: Chị ơi!
*
Nàng đã qua đời để tối nay,
Có chàng đi hứng gió heo may,
Bên hồ để mặc mưa rơi ướt,
Đếm mãi bâng quơ những dấu giầy…
Người ấy hình như có biết nàng,
Có lần toan tính chuyện sang ngang.
Nhưng hồn nàng tựa con thuyền bé,
Vội cắm nghìn thu ở suối vàng.
Có gì vừa mất ở đâu đây?
Lòng thấy mềm như rượu quá say.
Hốt hoảng chàng tìm trong bóng tối:
Bàn tay lại nắm phải bàn tay.
*
Chỉ một vài hôm nữa, thế rồi
(Người ta thương nhớ có ngần thôi.)
Người ta nhắc đến tên nàng để,
Kể chuyện nàng, như kể chuyện vui.
Tôi với nàng đây không biết nhau,
Mà tôi thương tiếc bởi vì đâu?
“Mới hay tự cổ bao người đẹp,
Chẳng hẹn trần gian đến bạc đầu.”
Hà Nội, 1940
Bài thơ này đã được nhạc sĩ Trịnh Lâm Ngân phổ nhạc thành bài hát Hồn trinh nữ.
*
TIỄN MỘT HỒN HOA GIỮA NHỮNG NGÀY CÒN RỰC NẮNG
Giữa những vần thơ đầy chân chất và tình cảm của Nguyễn Bính, “Viếng hồn trinh nữ” hiện lên như một khúc bi ca đau xót tiễn đưa một cánh hoa vừa hé nở đã vội lìa cành. Bài thơ không chỉ là tiếng khóc cho một người con gái đoản mệnh, mà còn là bản thánh ca tiễn biệt cái đẹp, cái thanh khiết, cái mỏng manh của kiếp người. Từng câu chữ như thấm đẫm nỗi buốt giá, chạm sâu vào tâm khảm người đọc bằng chất liệu của tiếc thương, của ám ảnh và của nhân tình thế thái.
Nguyễn Bính đã mở đầu bài thơ bằng một khung cảnh Hà Nội chiều xuống: “Chiều về chầm chậm trong hiu quạnh, / Tơ liễu theo nhau chảy xuống hồ”. Cảnh vật nhuốm màu tang tóc, như chính thiên nhiên cũng đang để tang. Ở đây không còn là một Hà Nội tấp nập, mà là một kinh thành đang “quấn khăn sô” cho một người con gái vừa nằm xuống. Nhà thơ không chỉ nhìn bằng mắt, mà nhìn bằng trái tim, để rồi cảm nhận được sự mất mát như một tiếng nấc nghẹn ngào lặng lẽ bao phủ không gian.
Chân dung người con gái hiện lên không rõ nét, nhưng lại đầy ám ảnh. Đó là một thiếu nữ trinh nguyên, đoan chính, vừa bước vào độ tuổi đẹp nhất đời người. Hình ảnh “chiếc áo màu xanh tựa nước hồ” nàng mới may cho mùa thu, nay đã bị chôn vùi dưới mộ, khiến cái chết không còn mang dáng hình của sự kết thúc, mà là sự dở dang, là cái đau đớn vì bị cắt ngang giữa những ước mơ đang dệt. Cô gái ấy, hôm qua còn sống với “chăn hoa ướp một trời xuân sắc”, với giấc mộng thanh xuân, sáng nay đã “lặng im”, máu đào ngưng đọng nơi tim.
Nỗi đau không chỉ là của riêng thi nhân, mà còn là nỗi đau chồng chất của mẹ già, của những đứa em thơ. Câu thơ “Mà nay trên những môi ngoan ấy, / Chả được bao giờ gọi: Chị ơi!” khiến người đọc nghẹn ngào. Nó đơn giản, mộc mạc, nhưng chứa cả một đời hụt hẫng. Cái chết ấy đã để lại một khoảng trống không gì lấp được trong trái tim những người ở lại.
Ở phần cuối bài, Nguyễn Bính dẫn dắt người đọc về một người con trai – kẻ từng yêu nàng, hoặc đã từng muốn yêu nàng. Người ấy bơ vơ bên hồ, mặc mưa rơi, đếm dấu giày vô định giữa nỗi buốt giá của gió heo may. Chàng run rẩy trong cảm giác mất mát, tìm kiếm trong bóng tối, chỉ để “bàn tay lại nắm phải bàn tay”. Cái cử chỉ ấy như gói cả một nỗi tuyệt vọng và trống rỗng. Có lẽ, trong chính khoảnh khắc đó, cái chết không còn là của riêng nàng, mà là của một giấc mơ dang dở, của một tình yêu chưa kịp chạm tay.
Đau đớn hơn, Nguyễn Bính còn vẽ ra một hiện thực tàn nhẫn: “Người ta thương nhớ có ngần thôi”. Cái đẹp, cái tử tế, cái mất mát – rồi cũng sẽ bị đời người ta hóa thành chuyện kể, thành “chuyện vui” qua quán nước đầu làng. Nỗi buồn riêng sẽ hóa ra tro bụi trong cái thờ ơ tập thể, và chỉ có thi nhân – với trái tim nhạy cảm và lòng trắc ẩn sâu xa – là còn giữ mãi một nén hương lòng.
Không quen biết, không ruột thịt, nhưng Nguyễn Bính viết bằng tất cả tình người. Ông thương tiếc không phải chỉ vì người con gái ấy trẻ, mà vì đó là đại diện cho bao nhiêu số phận đẹp đẽ, thanh khiết đã không thể đi hết cuộc đời. Câu kết “Mới hay tự cổ bao người đẹp, / Chẳng hẹn trần gian đến bạc đầu” như một tiếng thở dài, như một lời nhắn gửi với nhân gian: Cái đẹp luôn mong manh, và vì thế, càng đáng trân quý.
“Viếng hồn trinh nữ” là một trong những bài thơ đặc biệt nhất của Nguyễn Bính, không chỉ bởi hình thức thơ tám chữ cổ điển, không chỉ bởi lối kể chuyện dung dị mà sâu lắng, mà còn vì thông điệp nhân văn thấm đẫm. Bài thơ khiến ta dừng lại, để nhìn lại những phận người nhỏ bé giữa cuộc đời rộng lớn, để biết trân trọng cái đẹp, và để cảm thương hơn với những điều chưa trọn vẹn.
*
Nguyễn Bính (1918-1966) là một trong những nhà thơ nổi bật của phong trào Thơ mới Việt Nam. Ông được biết đến với phong cách mộc mạc, giản dị, đậm chất dân gian và mang hồn quê sâu sắc. Thơ Nguyễn Bính thường gắn với hình ảnh thôn quê, con người bình dị và những chuyện tình duyên đầy cảm xúc, thể hiện một tâm hồn tha thiết với truyền thống. Một số bài thơ tiêu biểu như Lỡ bước sang ngang, Tương tư, Chân quê… đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bạn đọc nhiều thế hệ.
Viên Ngọc Quý