Cảm tác
Thơ suông, rượu nhạt, quán cơm nghèo
Xuân xế mùa xuân, chiều xế chiều
Chín hẹn đã sai mười: bạn quý
Nghìn voi không được một: người yêu
Bá Nha thuở trước còn Chung Tử
Kim Trọng đời nay hết Thuý Kiều
Võng tía tàn vàng đi nượp nượp
Giũ tà áo vải bụi bay theo.
1941
*
Giũ tà áo vải bụi bay theo – Một nỗi cảm hoài trong chiều xế của Nguyễn Bính
Có những bài thơ của Nguyễn Bính như những chiếc gương nhỏ, soi rõ một góc tâm hồn buồn bã, chua chát, nhưng rất mực chân thành. Bài “Cảm tác”, viết năm 1941, là một khúc ngâm ngắn nhưng thấm đẫm nỗi hoài cảm của một thi nhân sống giữa những mâu thuẫn của thời đại: giữa lý tưởng và hiện thực, giữa hoài niệm và thực tế phũ phàng, giữa mộng và tan mộng. Chỉ tám câu thơ, Nguyễn Bính đã gói trọn một tâm sự chất chứa, như một nén hương âm thầm dâng lên cho những điều đã khuất, đã mất – kể cả trong lòng mình.
Thơ suông, rượu nhạt, quán cơm nghèo
Xuân xế mùa xuân, chiều xế chiều
Hai câu đầu là một bức tranh đời giản dị, đầy chất bụi và vị mặn chát của thi sĩ: thơ không bán được, rượu chẳng say, quán cơm rẻ tiền – tất cả đều lửng lơ, tạm bợ. Nguyễn Bính không hề che giấu hoàn cảnh thực tại của mình: một kẻ sống với thơ nhưng thơ không nuôi sống được mình, một kẻ yêu mùa xuân nhưng chỉ còn gặp mùa xuân khi “xế bóng”.
Câu thơ “xuân xế mùa xuân, chiều xế chiều” không chỉ là một cách chơi chữ tài hoa, mà còn là tiếng thở dài ngấm ngầm của một người biết mình đang sống trong buổi hoàng hôn của cả lý tưởng và thời thế.
Chín hẹn đã sai mười: bạn quý
Nghìn voi không được một: người yêu
Hai câu tiếp là một lời kết đắng cho niềm tin vào con người. Bạn bè không giữ lời, tình yêu không có lấy một người xứng đáng. “Chín hẹn đã sai mười” – cái cách nói vừa hóm hỉnh vừa cay nghiệt. “Nghìn voi không được một người yêu” – là nỗi chua xót của người đặt trái tim mình nơi đâu cũng thấy trống. Trong thế giới ấy, lý tưởng hóa về tình bạn, tình yêu dường như sụp đổ.
Nguyễn Bính, trong thơ này, không còn là chàng trai làng lãng mạn mà là một kẻ tỉnh táo giữa hoang vu, buộc phải đối mặt với sự thật tàn nhẫn: tình thân có thể rời rạc, tình yêu có thể viễn vông.
Bá Nha thuở trước còn Chung Tử
Kim Trọng đời nay hết Thúy Kiều
Và đây – chính là cao trào của cảm hoài. Nguyễn Bính mượn hình ảnh cổ điển – tình tri âm giữa Bá Nha và Tử Kỳ, tình ái giữa Kim Trọng và Thúy Kiều – để diễn đạt sự mất mát sâu sắc nhất: con người hôm nay đã không còn biết sống cho nhau như xưa. Một thế giới nơi không có tri âm để gảy khúc lòng, không có tri kỷ để mà yêu cho trọn.
Hai câu thơ là một lời biện minh u sầu cho sự cô độc của người nghệ sĩ. Nguyễn Bính không hề kiêu bạc, ông chỉ buồn – vì cái đẹp, cái chân thành, cái nghĩa tình mà ông tôn thờ đang dần biến mất.
Võng tía tàn vàng đi nượp nượp
Giũ tà áo vải bụi bay theo.
Hai câu kết là một cái nhìn đầy trào lộng mà thâm trầm về sự phân hóa xã hội. Một bên là lớp người trong võng tía, tàn vàng – biểu tượng cho quyền quý, xa hoa, một bên là hình ảnh “giũ tà áo vải” – bụi bay, nghèo khó, vô danh. Câu thơ cuối là sự tan rã, lạc lõng của một hồn thơ giữa những lớp bụi phàm tục.
Và có thể hiểu rằng, Nguyễn Bính chính là người đang giũ tà áo vải ấy – một thi sĩ chân quê, bước đi giữa những phù hoa giả dối mà lòng không khỏi mỏi mệt, không khỏi hoài nghi.
“Cảm tác” là bài thơ không phô trương cảm xúc, không rơi lệ bi ai, nhưng đọc xong lại khiến người ta nghẹn ngào. Bởi vì trong tám câu thơ ấy là một Nguyễn Bính rất thật – một thi sĩ buồn trong thời thế rối ren, yêu mà không gặp được người yêu, sống mà không có bạn tri âm, tin mà không được tin lại, viết mà biết trước thơ mình “suông”, rượu mình “nhạt”.
Và cũng bởi thế, bài thơ này không chỉ là cảm tác riêng cho một chiều hôm nào đó năm 1941 – mà còn là nỗi niềm của bao tâm hồn cô độc trong thời hiện đại.
Thông điệp sâu sắc của bài thơ:
Thơ không cứu được đời,
Tình không giữ được người,
Chân thành không ngăn được phản trắc,
Nhưng ta vẫn làm thơ, vẫn yêu, vẫn tin –
Vì đó là cách duy nhất để sống cho đúng với chính mình.
Và như Nguyễn Bính, ta cũng lặng lẽ giũ tà áo vải, mặc bụi bay, mà giữ cho hồn mình một nếp gió xưa.
*
Nguyễn Bính (1918-1966) là một trong những nhà thơ nổi bật của phong trào Thơ mới Việt Nam. Ông được biết đến với phong cách mộc mạc, giản dị, đậm chất dân gian và mang hồn quê sâu sắc. Thơ Nguyễn Bính thường gắn với hình ảnh thôn quê, con người bình dị và những chuyện tình duyên đầy cảm xúc, thể hiện một tâm hồn tha thiết với truyền thống. Một số bài thơ tiêu biểu như Lỡ bước sang ngang, Tương tư, Chân quê… đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bạn đọc nhiều thế hệ.
Viên Ngọc Quý