Bạch đào
Tình cờ không hẹn bỗng mà nên
Một buổi đầu năm tết Kỷ Hợi
Có năm người bạn bến sông Hoàng
Gặp nhau uống rượu mừng năm mới
Chuyện thơ chuyện phú, chuyện non sông
Chuyện trước chuyện sau thật sôi nổi
Bỗng nhiên Hiếu Lang vỗ đùi khoe:
Đệ có cây đào hoa mới bói
Giống đào thật quý nhất xưa nay
Cánh trắng, bông to, sương tuyết gội…
Chợt nghe hoa quý nở vườn xuân
Bỏ ngay câu chuyện, lòng phơi phới
Nửa đêm đội mưa ra đi ngay
Quản chi nhà xa đường ướt lội
Như có người yêu hé cửa chờ
Như có bạn cũ đốt trầm đợi
Nhớ lại thời xưa Bất Thượng Thuyền
Lý Bạch nằm say không trở gối
Vì hoa nên phải đánh đường tìm
Đây phải chín tầng đem chiếu gọi
Đến nơi mở cửa, đốt đèn lên
Kẻ trước người sau bước vồi vội
Ra mé Tây Viên, tới gốc đào
Lặng ngắm hoa cười, im chẳng nói
Tất cả cùng chung nhớ một câu:
Hoa lưu động khẩu ưng trường tại
Khách nhân cao hứng đề thơ này.
Đề tại Tây Viên, phố Vị
Đêm mồng hai tết, năm Kỷ Hợi
*
“Bạch đào” – Một cánh hoa, một mùa xuân, một khắc vĩnh cửu
Trong dòng thơ Nguyễn Bính, Bạch đào là một bài thơ mang phong vị rất khác: không còn chỉ là nỗi niềm thôn dã, cũng không thuần là chuyện tình vương vấn, mà là sự kết tinh của bạn hữu, thi ca, thiên nhiên và một khoảnh khắc giao mùa hiếm hoi – nơi cái đẹp bất chợt gặp gỡ những tâm hồn đồng điệu để sinh ra một phút giây bất tử.
Bài thơ mở đầu bằng một tình huống giản dị nhưng đầy duyên:
“Tình cờ không hẹn bỗng mà nên / Một buổi đầu năm tết Kỷ Hợi”
Năm người bạn văn nghệ tình cờ tụ họp nơi bến sông Hoàng – một khung cảnh vừa thực vừa nên thơ, như chính cái hồn thi sĩ đang phơi mở giữa tiết xuân. Chén rượu đầu năm, câu chuyện về thơ phú và đất nước… bỗng dưng bị ngắt quãng bởi một cành hoa – không phải một cành hoa thông thường, mà là cành “bạch đào” mới nở. Và chỉ thế thôi, năm người, như bị cuốn vào một dòng chảy vô hình, lập tức đội mưa nửa đêm mà đi, chỉ vì một đóa hoa trắng.
Nguyễn Bính đã thổi vào chi tiết ấy một sự say mê đến đắm đuối:
“Như có người yêu hé cửa chờ / Như có bạn cũ đốt trầm đợi”
Đó không đơn thuần là việc ngắm hoa, mà là hành động của những kẻ biết sống, biết yêu, biết trân trọng từng vẻ đẹp mong manh trong đời. Dưới mắt họ, đóa hoa bạch đào không chỉ là một hiện tượng thiên nhiên – nó là biểu tượng của cái đẹp tinh khiết, cái đẹp hiếm hoi khiến người ta phải vượt ngàn gian khó, phải rũ bỏ cả mọi mối bận tâm để kịp gặp gỡ.
Hình ảnh năm người bạn “lặng ngắm hoa cười, im chẳng nói” trong ánh đèn nửa đêm tại vườn Tây Viên là một khoảnh khắc thiêng liêng. Giữa thời cuộc đầy biến động, giữa cuộc sống thực dụng đang lấn át thi ca, thì một giây phút như thế là điều vô giá. Đó là chốn tạm dừng cho những tâm hồn khát sống và khát đẹp – những thi sĩ không để cho mình bị vùi lấp bởi bụi đời.
Bài thơ kết lại bằng một câu thơ cổ được nhắc lại với tất cả sự thành kính:
“Hoa lưu động khẩu ưng trường tại”
(Hoa nương cửa động hoa thơm mãi)
Câu thơ ấy không chỉ nói về hoa, mà còn nói về chính khoảnh khắc đó – khoảnh khắc mà vẻ đẹp, tình bạn, thi ca và ký ức hòa làm một. Dù năm tháng có trôi, dù lòng người có đổi thay, thì hình ảnh đêm xuân nơi Tây Viên ấy vẫn sẽ còn mãi – như cánh hoa bạch đào nở trong tâm hồn người thi sĩ.
Nguyễn Bính, qua Bạch đào, không chỉ kể một câu chuyện về hoa. Ông ca ngợi một triết lý sống: sống để cảm, sống để tìm, sống để biết cúi đầu trước cái đẹp mong manh. Đó là lời nhắc nhở cho những ai đang bị cuốn vào vòng xoáy vội vã của đời sống – rằng vẫn còn những phút giây nên giữ gìn, như giữ một cánh hoa trắng nở giữa trời xuân, như giữ một ký ức đẹp đã từng làm con người trở nên cao quý hơn trong tâm tưởng.
*
Nguyễn Bính (1918-1966) là một trong những nhà thơ nổi bật của phong trào Thơ mới Việt Nam. Ông được biết đến với phong cách mộc mạc, giản dị, đậm chất dân gian và mang hồn quê sâu sắc. Thơ Nguyễn Bính thường gắn với hình ảnh thôn quê, con người bình dị và những chuyện tình duyên đầy cảm xúc, thể hiện một tâm hồn tha thiết với truyền thống. Một số bài thơ tiêu biểu như Lỡ bước sang ngang, Tương tư, Chân quê… đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bạn đọc nhiều thế hệ.
Viên Ngọc Quý