Tỉnh giấc chiêm bao
Chín năm đốt đuốc soi rừng
Về đây ánh điện ngập ngừng bước chân
Cửa xưa mành trúc còn ngăn
Góc tường vẫn đọng trăng xuân thuở nào
Làng xa bản nhỏ đèo cao
Gió bay tà áo chiêm bao nửa chừng
Anh về, luyến núi thương rừng.
Nhớ em, trời sáng một vừng thủ đô.
Bồi hồi chuyện cũ năm xưa
Gặp nhau lần cuối… trang như lệ nhoà
Thư rằng: “Thôi nhé đôi ta
Tình sao không phụ mà ra phụ tình
Duyên nhau đã dựng Trường đình
Mẹ em đã xé tan tành gối thêu…”
Trăng khuya súng núi gươm đèo
Anh đi, thư vẫn nằm theo bên mình
Lửa sàn nét chữ chênh chênh
Xếp thư đến rách chưa lành vết thương.
Đằm đằm hoa sữa lên hương
Chân anh đương bước giữa đường phố đây
Nẻo hồ, song cửa, lá bay
Sáng trưng bóng dáng bao ngày yêu xưa
Trăm năm đã lỡ hẹn hò
Cây đa bến cũ con đò còn không?
Tình cờ gặp giữa phố đông
Em đi ríu rít tay chồng tay con
Nét cười âu yếm môi son
Áo bay nhắc buổi trăng tròn sánh vai…
Chín năm bão tối mưa ngây
Nước non để có hôm nay sáng trời
Em đi, hạnh phúc hồng tươi
Anh nhìn tận mắt cuộc đời đẹp sao!
Sắc hương muôn nẻo tuôn trào
Tiếc mà chi giấc chiêm bao một mình
Anh về viết lại thơ anh
Để cho bến mát cây xanh đôi bờ
Cho sông cho nước tự giờ
Chẳng còn lỡ chuyện con đò sang ngang
Lứa đôi những bức thư vàng
Chẳng còn chữ chữ hàng hàng lệ rơi
Chim hồng chim nhạn, Em ơi!
Trên nền gối cưới đời đời yêu nhau.
8-1956
*
“Tỉnh giấc chiêm bao – Từ giấc mộng dang dở đến ánh sáng của yêu thương và hy vọng”
Trong sâu thẳm ký ức một đời người, có những mối tình không thành nhưng mãi mãi không tàn. “Tỉnh giấc chiêm bao” của Nguyễn Bính là một bài thơ như thế – một khúc trầm da diết, chất chứa bao hoài niệm, tiếc nuối và cuối cùng là một sự buông tay đầy nhân hậu để hướng về tương lai. Bài thơ không chỉ là dòng cảm xúc riêng tư của một người đã từng yêu, từng xa, từng mất, mà còn là lời nhắn nhủ sâu sắc về tình người, về thời cuộc và sự hy sinh cho ngày mai tròn đầy.
Chín năm mịt mùng và buổi trở về ánh sáng
Mở đầu bài thơ là hình ảnh tương phản: chín năm đốt đuốc soi rừng – ánh điện ngập ngừng bước chân. Nguyễn Bính đã sống trọn trong kháng chiến, trong rừng, nơi mịt mù lửa đạn và ánh sáng chỉ là ngọn đuốc tự tay đốt lên. Nay trở về, giữa ánh sáng của thủ đô, giữa sự đổi thay, ông như người vẫn còn lặng đi giữa mênh mông cũ mới. Bóng dáng người xưa, căn nhà xưa, trăng thuở nào – tất cả vẫn ở đó, nhưng có gì đã mất mãi.
Anh về, luyến núi thương rừng.
Nhớ em, trời sáng một vừng thủ đô.
Ánh sáng không xua đi nỗi nhớ – nó chỉ làm cho nỗi nhớ thêm rõ rệt, thêm sắc cạnh. Trái tim người thi sĩ không thuộc về một thời bình đơn thuần – nó vẫn in bóng một quá khứ chưa ngủ yên.
Mối tình cũ – giấc mộng không thành
Ở trung tâm bài thơ là chuyện tình buồn, có thật, nhưng không thành. Lần gặp cuối cùng là một trang thơ “như lệ nhòa”. Một câu nói cũ trong thư xé lòng: “Thôi nhé đôi ta”. Tình yêu ấy, không phụ nhau nhưng đành chia tay vì những áp lực không tên: chiến tranh, gia đình, thời thế.
Mẹ em đã xé tan tành gối thêu…
Câu thơ buốt lạnh như dao cứa. Mối duyên đã xây bằng “Trường đình” – nghĩa là đã sâu, đã bền, đã gắn kết trong mộng ước lứa đôi – giờ bị một bàn tay thực tại xé vụn.
Chàng trai mang theo nỗi đau ấy vào rừng, lửa sàn thiêu đốt mà nét chữ vẫn chênh chênh, bức thư tình như một tàn tro còn ấm. Trong chín năm đó, vết thương tình yêu chưa lành, chỉ được chôn sâu dưới tiếng súng, tiếng mưa rừng, và bước chân người chiến sĩ.
Gặp lại giữa phố đông – và giấc mộng cuối cùng tan vỡ
Đau lòng nhất là cuộc gặp tình cờ giữa phố đông – người xưa nay đã có chồng con, bước đi ríu rít, rạng ngời trong hạnh phúc. Anh đứng lại giữa phố mà như đứng ngoài cả dòng chảy cuộc đời:
Trăm năm đã lỡ hẹn hò
Cây đa bến cũ con đò còn không?
Câu hỏi như tự hỏi mình – hay hỏi cả một định mệnh từng đứt đoạn. Và rồi, không oán trách, không bi lụy, người thi sĩ chấp nhận giấc mộng chiêm bao đã kết thúc. Nhưng từ đó, ông tỉnh giấc – tỉnh để thấy cuộc đời vẫn đẹp, ánh sáng hôm nay là có thật, và tình yêu – dù không còn ở mình – vẫn là điều nên được gìn giữ và chúc phúc.
Thông điệp của bài thơ – Biết tiếc thương, biết buông bỏ, biết giữ gìn yêu thương cho người khác
Nguyễn Bính không rơi vào cay đắng. Ông nhìn người con gái xưa hạnh phúc bên chồng con, và ông không hề ghen tỵ. Trái lại, niềm vui của em chính là dấu hiệu rằng cuộc đời này xứng đáng với bao hy sinh, xứng đáng với nỗi đau từng có:
Em đi, hạnh phúc hồng tươi
Anh nhìn tận mắt cuộc đời đẹp sao!
Và ông viết lại thơ mình – không phải để khóc than cho chuyện cũ, mà để giữ gìn bến mát cây xanh đôi bờ, để những lứa đôi sau không còn dang dở, để thư tình không còn thấm đẫm nước mắt, và để “chim hồng chim nhạn… đời đời yêu nhau”.
Kết: Giấc mộng tình yêu cũ – viên gạch đầu tiên xây nên một cuộc sống hạnh phúc cho người khác
“Tỉnh giấc chiêm bao” là một bài thơ tình mà cái đẹp không nằm ở chỗ thành đôi, mà ở chỗ biết giữ lòng trong sáng, biết yêu đến tận cùng và buông tay với tất cả thứ tha. Nguyễn Bính đã viết nên một khúc ca lặng lẽ của những người đã đánh đổi riêng mình để giữ trọn vẹn cho điều lớn hơn – một ngày mai, một đất nước, và những đôi lứa được trọn tình.
Và trong ánh sáng hôm nay, dù là người ở lại với bóng mình, ông vẫn có thể mỉm cười: vì giấc chiêm bao ấy, dù đơn độc, cũng đã góp phần vào bình minh rạng rỡ của cả một đời.
*
Nguyễn Bính (1918-1966) là một trong những nhà thơ nổi bật của phong trào Thơ mới Việt Nam. Ông được biết đến với phong cách mộc mạc, giản dị, đậm chất dân gian và mang hồn quê sâu sắc. Thơ Nguyễn Bính thường gắn với hình ảnh thôn quê, con người bình dị và những chuyện tình duyên đầy cảm xúc, thể hiện một tâm hồn tha thiết với truyền thống. Một số bài thơ tiêu biểu như Lỡ bước sang ngang, Tương tư, Chân quê… đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bạn đọc nhiều thế hệ.
Viên Ngọc Quý