Cảm nhận bài thơ: Vô đề (Thiên nhai hải giác nhất phiêu bình) – Nguyễn Bính

Vô đề (Thiên nhai hải giác nhất phiêu bình) 

 

  



宿




Thiên nhai hải giác nhất phiêu bình,
Hữu thử tài năng luỵ thử sinh.
Thư tác lữ trung vô nhạn túc,
Nguyệt trầm song ngoại sổ kê thanh.
Hương lân cửu biệt quy nan đắc,
Đô thị trường lưu mộng bất thành.
Cô quán tài thi cô bút tại,
Khiêu đăng đảo chẩm đáo thời minh.

Dịch nghĩa

Chân trời góc bể lênh đênh một cánh bèo
Có tài mà vất vả suốt một đời!
Thư viết trong quán trọ mà quán trọ không có chim nhạn (để nhạn đem thư đi)
Trăng chìm ngoài cửa sổ, nghe có mấy tiếng gà gáy
Xa hàng xóm lâu ngày, mà khó được về.
Sống lâu ở thành thị mà mộng chẳng thành
Tài thơ trong quán vắng chỉ có một cây bút (chỉ có một mình ta)
Khêu đèn, trở gối cho đến sáng


Theo nhà phê bình Hồng Diệu (tên thật là Đỗ Văn Thuận), nhà thơ Trần Lê Văn có lần nói với ông về bài thơ chữ Hán này của Nguyễn Bính chưa in ở đâu và vừa tìm lại được trong sổ tay của mình. Theo đó, Trần Lê Văn cho biết, Nguyễn Bính đã đọc và ông ghi lại bài thơ này vào khoảng những năm 1956-1957. Hồng Diệu công bố bài thơ này gồm bản phiên âm, dịch nghĩa của ông và dịch thơ của Trần Lê Văn trên báo Văn nghệ công an bản điện tử ngày 21-6-2019. Bản chữ Hán ở đây được phiên ngược dựa theo các bản còn lại.

*

Một cánh bèo phiêu dạt giữa đời – Lời tự tình của Nguyễn Bính

Giữa những dòng thơ Việt mượt mà và đậm chất dân gian mà người đời biết đến, Nguyễn Bính còn để lại một dấu ấn đặc biệt bằng bài thơ chữ Hán “Vô đề (Thiên nhai hải giác nhất phiêu bình)”. Bài thơ như một tiếng thở dài cô độc của thi sĩ, viết giữa những năm tháng mờ mịt sau cách mạng, khi ông sống lặng lẽ giữa phố phường Hà Nội mà lòng thì mãi thuộc về những miền quê lặng gió, những con đường thơ dại mà mình từng đi qua.

Phiêu bạt một đời – tài hoa nhưng long đong

Thiên nhai hải giác nhất phiêu bình,
Hữu thử tài năng luỵ thử sinh.

(Chân trời góc bể lênh đênh một cánh bèo,
Có tài mà vất vả suốt một đời!
)

Chỉ hai câu đầu đã khắc họa trọn vẹn nỗi buồn hiện sinh và số phận cô đơn của một con người tài hoa mà bất hạnh. Nguyễn Bính nhìn mình như một cánh bèo nhỏ, trôi giạt vô định trong cuộc đời rộng lớn, giữa thiên nhai và hải giác – những nơi tưởng tượng xa thẳm như nỗi trống trải không cùng của tâm hồn thi sĩ. Đối diện với đời, ông không tự hào về tài năng, mà chỉ thấy chính nó là cái khiến ông luỵ phiền, khiến đời ông càng lắm khổ đau.

Giấc mộng thi sĩ trong quán trọ cuộc đời

Thư tác lữ trung vô nhạn túc,
Nguyệt trầm song ngoại sổ kê thanh.

(Thư viết trong quán trọ mà quán trọ không có chim nhạn,
Trăng chìm ngoài cửa sổ, nghe có mấy tiếng gà gáy.
)

Nguyễn Bính viết thơ như viết một bức thư gửi đời, nhưng bức thư ấy không có chim nhạn mang đi – nghĩa là không ai đón nhận, không nơi đến. Ông như sống tạm giữa đời, trong một quán trọ lữ khách, mà đêm dài chỉ có trăng tàn và tiếng gà lẻ loi ngoài cửa sổ. Không có bạn tri âm, không có người đồng điệu. Thi sĩ chỉ còn đối diện với chính mình, với một đêm trống vắng đến tê dại.

Mộng không thành – hương quê xa khuất

Hương lân cửu biệt quy nan đắc,
Đô thị trường lưu mộng bất thành.

(Xa hàng xóm lâu ngày, mà khó được về.
Sống lâu ở thành thị mà mộng chẳng thành.
)

Nỗi nhớ quê nhà trong Nguyễn Bính luôn là vết cắt âm thầm. Bao năm sống nơi phố thị, giữa tiếng xe và ánh đèn điện, ông vẫn chỉ là người xa xứ nhớ về nơi bụi tre, bến nước. Nhưng thời thế, trách nhiệm, nợ đời… khiến ông không thể trở về. Mộng của thi sĩ là gì? Là một giấc mơ sống trọn với thơ ca, yêu thương, quê hương và nhân nghĩa. Nhưng mộng ấy giữa đô thị – nơi phồn hoa mà lắm giả dối – chỉ là ảo ảnh.

Cô đơn tận cùng – ánh đèn lẻ loi thức với người thơ

Cô quán tài thi cô bút tại,
Khiêu đăng đảo chẩm đáo thời minh.

(Tài thơ trong quán vắng chỉ có một cây bút (chỉ có một mình ta),
Khêu đèn, trở gối cho đến sáng.
)

Tài thơ vẫn còn, cây bút vẫn trong tay, nhưng Nguyễn Bính chỉ còn lại một mình. Giữa căn quán cô độc, ông thức trắng đêm bên ánh đèn, gối đầu trở giấc, không phải vì thao thức sáng tạo, mà vì không ngủ được giữa những dằn vặt, chán chường. Một hình ảnh quá đỗi thảm thê mà chân thực: nhà thơ tài hoa nhất trong phong trào Thơ mới – giờ đây sống lặng lẽ và buồn tênh giữa lòng thành phố.

Thông điệp: Nỗi cô đơn kiêu hãnh của kẻ sống bằng thơ

“Vô đề (Thiên nhai hải giác nhất phiêu bình)” không chỉ là một bài thơ chữ Hán hiếm hoi của Nguyễn Bính, mà là tấm gương phản chiếu chính tâm hồn ông – một người sống hết mình vì thơ, yêu quê hương tha thiết, nhưng lạc lõng giữa đổi thay của thời cuộc.

Ông không khóc lóc, không cầu cứu. Chỉ lặng lẽ khêu đèn, trở gối, cầm bút – như một người lính cuối cùng giữ thành trì thi ca giữa đêm đen lạnh giá. Và chính ở nơi tận cùng cô đơn ấy, ánh sáng của Nguyễn Bính vẫn không tắt, vẫn để lại cho đời một bài thơ ngậm ngùi, sâu sắc và đầy nhân bản.

Kết: Một bài thơ như một tiếng thở dài – cho thơ, cho đời và cho chính mình

Nguyễn Bính từng sống bằng thơ, yêu bằng thơ và chết cũng không rời thơ. Trong bài thơ này, người đọc không chỉ thấy tâm sự một cá nhân, mà còn là tiếng vọng của biết bao tâm hồn đau đáu với lý tưởng sống đẹp giữa thời cuộc nhiều biến động.

“Thiên nhai hải giác nhất phiêu bình” – phải chăng cũng chính là ẩn dụ cho số phận của thơ ca thuần khiết trong những năm tháng đầy xáo trộn? Nhưng Nguyễn Bính không hề oán trách. Ông chỉ ghi lại một cách lặng lẽ – như khói hương trầm thoảng qua một kiếp người thơ.

*

Nguyễn Bính (1918-1966) là một trong những nhà thơ nổi bật của phong trào Thơ mới Việt Nam. Ông được biết đến với phong cách mộc mạc, giản dị, đậm chất dân gian và mang hồn quê sâu sắc. Thơ Nguyễn Bính thường gắn với hình ảnh thôn quê, con người bình dị và những chuyện tình duyên đầy cảm xúc, thể hiện một tâm hồn tha thiết với truyền thống. Một số bài thơ tiêu biểu như Lỡ bước sang ngang, Tương tư, Chân quê… đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bạn đọc nhiều thế hệ.

Viên Ngọc Quý

Bạn có thể chia sẻ bài viết qua:

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *