Sách của Khổng Tử và Kinh điển của Khổng Gia

Khổng Tử lúc trở về nước Lỗ, không cầu ra tham chính nữa, ở nhà dạy học và san định các sách vở của cổ nhân để lại. Chủ ý Ngài là muốn phát huy cái đạo của thánh hiền đời trước ra và đem mà dạy người, chứ không phải là tạo tác ra cái đạo mới.

Ngài nói rằng: “Thuật nhi bất tác, tín nhi hiếu cổ, thiết tỉ ư ngã Lão Bành: Thuật lại cái đạo của thánh hiền mà tự mình không tạo tác ra cái gì, tin mà thích đạo đời xưa, ta trộm ví như ông Lão Bành”. Lão Bành là quan đại phu giỏi đời Thương, hay thuật lại những việc đời xưa, mà không làm ra cái gì mới lạ.

Cái đạo của thánh hiền đời xưa ghi chép ở cả trong những sách: Dịch, Thư, Thi, Lễ, Nhạc. Ngài xem kỹ những sách ấy rồi giải thích những chỗ khó hiểu, để phát minh cái nghĩa sâu xa ra, hoặc sắp đặt lại cho rõ ràng. Ngài lại làm ra bộ sách Xuân Thu để bày tỏ những quan niệm của Ngài về đường chính trị. Sách của Ngài soạn ra tất cả có sáu bộ, đời sau gọi là Lục Kinh.

Sau khi Khổng Tử mất rồi, những sách ấy đã mất mát đi nhiều, rồi đến đời nhà Tần, lại có việc đốt sách; thành thử các sách của Ngài phần thì lâu ngày mất đi, phần thì bị đốt hại, không còn được bao nhiêu. Đến đời nhà Hán, đạo Nho được hưng thịnh lên, vua sai tìm nhặt các sách, thì không tìm được quyển nào còn nguyên nữa. Nhất là Kinh Nhạc thì mất gần hết, chỉ còn lại có một thiên, sau đem vào bộ Lễ ký, đặt là thiên Nhạc ký. Kinh Lễ cũng thiếu nhiều, Hán nho mới đem phụ hoạ thêm vào, để làm ra bộ Lễ ký. Hiện nay những sách ấy tuy có sai lạc đi nhiều, nhưng hậu nho đã góp nhặt và phụ hoạ vào thành ra năm Kinh là: Kinh Thư, Kinh Thi, Kinh Lễ, Kinh Dịch và Kinh Xuân Thu, gọi là Ngũ Kinh.

Kinh Thư

Kinh Thư là bộ sách chép những điển, mô, huấn, cáo, thệ, mệnh của vua tôi dạy bảo khuyên răn nhau, từ thời vua Nghiêu vua Thuấn cho đến đời Đông Chu. Sách ấy là một bộ sử rất có giá trị, khiến cho hậu thế có thể biết được tư tưởng của cổ nhân về đạo lý, chế độ và phép tắc từ đời nọ qua đời kia, hiểu được tiến hoá của dân tộc Trung Hoa từ từ mỗi đời khác một khác.

Nhưng vì Kinh Thư bị nhà Tần đốt mất, đến đời nhà Hán mới có quan bác sĩ đời nhà Tần là Phục Sinh nhớ thuộc lòng đọc được hai mươi chín thiên. Sau ở nước Lỗ lại tìm được ở trong vách nhà Khổng Tử một tập hai mươi nhăm thiên, viết bằng chữ cổ. Những thiên của Phục Sinh đọc ra gọi là kim văn, những thiên tìm được gọi là cổ văn. Về sau quan bác sĩ là Khổng An Quốc, đời Đông Hán, xếp cả kim văn lẫn cổ văn làm thành ra Kinh Thư truyền đến ngày nay.

Kinh Thư chia ra làm: Ngu thư, Hạ thư, Thương thư, Chu thư, cả thảy từ thiên Nghiêu điển đến thiên Tần thệ là 59 thiên. Xem Kinh Thư thì biết cái tính chất phác và lối văn chương của người đời cổ. Những sự hành vi và những tư tưởng chép trong sách ấy đều lấy hai chữ chấp trung làm cốt.

Kinh Thi

Kinh Thi là bộ sách chép những bài ca, bài dao, từ đời thượng cổ đến đời vua Bình vương nhà Chu. Ca là bài hát có điệu có vần, dùng vào lúc tế tự, hay vào khi có việc hỉ việc hiếu. Dao là lời hát truyền khẩu của dân gian ở thôn dã. Xem Kinh Thi thì biết những tính tình, phong tục và chính trị các đời và các nước Chư hầu ở Trung Hoa. Như là Mân phong thì nói cái tục cần kiệm của người Mân. Vệ phong thì nói cái tục dâm mỹ của người nước Vệ, Tần phong thì nói cái sự hối quá của người nước Tần, v.v… Hoặc như Đại nhã, Tiểu nhã nói về việc chính trị thịnh suy đời nhà Chu.

Học Kinh Thi có thể di dưỡng tính tình và mở rộng tri thức của người ta, cho nên Khổng Tử nói: “Đọc Kinh Thi thì khả dĩ cảm phát chí ý, khả dĩ bày tỏ cái sầu oán mà không giận. Gần trong nhà thì biết cách thờ cha, xa ra ngoài thì biết cách thờ vua, biết nhiều những tên các giống chim muông cây cỏ”. Kinh Thi có nhiều ý tứ, nhưng khi xem sách ấy phải giữ cái tâm của mình cho chính, thì sự học mới có lợi. Khổng Tử nói: “Ba trăm bài trong Kinh Thi, lấy một lời mà nói trùm cả là: không nghĩ bậy”.

Kinh Lễ

Kinh Lễ là bộ sách chép những lễ nghi để hàm dưỡng những tình cảm tốt để giữ trật tự cho phân minh và để tiết chế các tình dục. Phàm những tình cảm của người ta mà không có cái gì để bồi dưỡng luôn, thì dần dần nói biến đổi hay có thể hoá dở được. Dùng lễ là có ý để gây nuôi lấy tình cảm tốt. Người ta ở trong xã hội có những việc quan hệ đến phong tục, tông giáo, nếu không có phép tắc rõ ràng, thì việc tế tự, việc hiếu, việc hỉ, cách ăn uống ở làng, ở nước thành ra hồ đồ hỗn độn, việc thù tiếp, cách đỗi đãi thành ra khó xử. Dùng lễ để phân biệt tôn ti, thân sơ, và giải quyết những sự hiềm nghi. Người ở đời ai cũng có lòng tư dục, nếu không có quy củ để phòng giữ trước, thì thường nó hay khiến người ta làm những điều bất nhân phi nghĩa. Dùng lễ là để tài chế sự hành vi cho hợp lẽ phải. Lễ quan trọng như thế, cho nên Nho giáo cho là: “Phàm người mà thật có cái phẩm giá con người là có lễ nghĩa vậy”.

Học lễ thì cần phải hiểu chữ: “Vô bất kính: Không có điều gì là không kính”. Đối với mình cũng như đối với người, bao giờ cũng phải lấy sự kính làm chủ. Không có kính thì bao nhiêu lễ thành ra hư văn vô ích.

Kinh Lễ hiện nay có 25 quyển, chia ra 49 thiên, phần nhiều là văn của Hán nho phụ hoạ vào, chứ chính văn đời Xuân Thu thì không còn được mấy.

Kinh Xuân Thu

Kinh Xuân Thu là bộ sách của Khổng Tử làm ra. Ngài theo lối văn làm sử mà chép truyện nước Lỗ, kể từ Lỗ Ẩn công đến Lỗ Ai công. Trong sách ấy chép cả việc nhà Chu và việc các nước Chư hầu. Xem hình thể bề ngoài thì là một bộ sử biên niên, lời lẽ vắn tắt, lắm chỗ hình như không có ý nghĩa gì cả, nhưng xét rõ đến tinh thần, thì thật là bộ sách triết lý về việc chính trị.

Thời Xuân Thu bấy giờ xã hội Trung Hoa loạn lạc, vua các nước Chư hầu làm nhiều điều bạo ngược và ai cũng muốn lấn quyền của thiên tử nhà Chu. Khổng Tử không muốn để sự phê bình phán đoán của Ngài động chạm đến những người quyền thế đương thời, nên Ngài lấy truyện ở trong các nước, dùng lối văn làm sử, nói việc đã qua để biểu thị cái ý của Ngài muốn bày tỏ ra.

Sách Xuân Thu có ba mục đích:

Chính danh tự: tôn vua nhà Chu, thể hiện bằng bốn chữ “Xuân vương chính nguyệt” (nghĩa là mùa xuân, tháng giêng, vua nhà Chu) để tỏ ý vẫn công nhận vua nhà Chu làm chủ thiên hạ. Theo Sử ký, các vua Ngô, Sở đều tự xưng vương, nhưng kinh Xuân Thu hạ thấp gọi là “tử“; hội nghị ở Tiễn Thổ thực ra là thiên tử nhà Chu bị triệu đến, nhưng kinh Xuân Thu che giấu lại nói là “Thiên vương đi tuần ở Hà Dương“.

Định danh phận: dùng chữ để định rõ người tà người chính: vua thiên tử chết chép chữ “băng“, vua chư hầu chết chép chữ “hoăng“, vua cướp ngôi chết chép chữ “tồ“, quan ngay chính chết chép chữ “tốt“, quan gian nịnh chết chép chữ “tử“. Người có danh phận chính đáng thì chép rõ chức phẩm và tên tự, người không có danh phận chính đáng thì chỉ chép tên tục. Vì thế nên sách Trang Tử, thiên Thiên hạ nói rằng Xuân Thu là sách nói về danh và phận.

Ngụ bao biếm (khen chê): sự khen hay chê là ở chữ dùng: “Nhất tự chi bao, vinh ư hoa cổn, nhất tự chi biếm, nhục ư phủ việt: một chữ khen thì vinh hơn cả áo hoa cổn nhà vua ban cho, một chữ chê thì nhục hơn cả phải tội rìu búa”. Những việc được khen là “giúp kẻ yếu, chống kẻ mạnh, cứu những nước bị tai nạn, phò những nước bị diệt vong”; những việc bị chê là “những nước chiến tranh nhau, hoặc dùng mưu kế mà khi trá nhau, cùng những con giặc, tôi loàn, và những kẻ phản quốc, thờ quân thù nghịch”. Vì thế nên Mạnh Tử nói rằng: “Khổng Tử viết kinh Xuân Thu khiến cho loạn thần, tặc tử sợ“.

Cũng theo Mạnh Tử, nguyên nhân Khổng Tử viết kinh Xuân Thu là: “Đời suy đạo yếu, tà thuyết và những việc làm tàn bạo lại dấy lên: có kẻ làm bề tôi mà lại giết vua, có kẻ làm con mà lại giết cha. Khổng Tử sợ, nên làm ra kinh Xuân Thu. Kinh Xuân Thu chép chuyện của thiên tử. Cho nên Khổng Tử nói: “Kẻ biết ta chỉ là bởi kinh Xuân Thu! Kẻ bắt tội ta cũng chỉ là bởi kinh Xuân Thu!“. Khổng Tử biết rằng trong nước không thể không có vua, nhưng lại sợ những người làm vua lạm dụng quyền lực của mình để làm những điều tàn bạo, cho nên Khổng Tử mới đem cái nghĩa lấy cái “nguyên” của dương khí mà thống trị việc trời, lấy trời mà thống trị vua chúa và bày tỏ nghĩa ấy trong sách Xuân Thu để hạn chế quyền lực của vua. Nhưng vì vua chúa ít người hiểu được lẽ thâm viễn siêu việt ấy, cho nên Khổng Tử mới lấy những tai dị như nhật thực, nguyệt thực, sao chổi, động đất để cảnh tỉnh bậc làm vua, muốn bậc làm vua phải lấy những điềm lạ ấy mà kính sợ, tự mình tu tỉnh lại và làm những điều nhân nghĩa.

Kinh Dịch

Kinh dịch nói về các tư tưởng triết học của người Trung Hoa cổ đại dựa trên các khái niệm âm dương, bát quái,… Đời Chu, Chu Văn Vương đặt tên và giải thích các quẻ của bát quái gọi là Thoán từ. Chu Công Đán giải thích chi tiết nghĩa của từng hào trong mỗi quẻ gọi là Hào từ. Kinh Dịch thời Chu gọi là Chu Dịch. Khổng Tử giảng giải rộng thêm Thoán từ và Hào từ cho dễ hiểu hơn và gọi là Thoán truyện và Hào truyện. Từ đó Kinh Dịch có 2 thiên kinh và 10 thiên Truyện, cả thảy là 12 thiên.

Trong những thiên Truyện, Khổng Tử giải thích rõ ràng các ý nghĩa sâu xa ở Kinh Dịch và phát huy những tư tưởng uyên náo về tạo hoá và những quan niệm đặc biệt về vũ trụ và vạn vật. Ngài lập thành cái nền triết học của Nho Giáo. Về sau các nhà nho đời Tống đều sở cứ vào Kinh Dịch mà thiết lập ra các học thuyết có giá trị. Khổng Tử nói: “Dịch là để mở ra muôn vật, thành được mọi việc, trùm lên cái đạo của thiên hạ, có thế mà thôi. Cho nên thánh nhân dùng đạo Dịch để thông được cái chí thiên hạ, định được công nghiệp của thiên hạ, đoán được cái ngờ của thiên hạ”.

Khổng Tử học Dịch mất nhiều công phu lắm. Khi Ngài đã già, Ngài xem Kinh Dịch đến ba lần đứt dây lề sách, mới làm ra các thiên Truyện. Thế mà Ngài còn nói: “Giá cho ta thêm được mấy năm nữa… để ta học Dịch cho trọn vẹn, thì khả dĩ không có điều lầm lớn vậy”. Một bộ sách mà thánh nhân đã phải dụng tâm đến như thế và cho là khó hiểu như thế, tất là có bao nhiêu tư tưởng kỳ diệu, ta nên biết và đừng lấy làm khinh thường.

Tứ Thư: Đại Học – Trung Dung – Luận Ngữ – Mạnh Tử

Sau khi Khổng Tử mất, học trò của ngài tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn Luận Ngữ. Học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử, dựa vào lời thầy mà soạn ra Đại Học. Sau đó, cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, còn gọi là Tử Tư viết ra cuốn Trung Dung.

Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng mà sau này học trò của ông chép thành sách Mạnh Tử. Bốn sách sau được gọi là Tứ Thư và cùng Ngũ Kinh hợp lại làm 9 bộ sách chủ yếu của Nho giáo và còn là những tác phẩm văn chương cổ điển của Trung Quốc. Từ Khổng Tử đến Mạnh Tử hình thành nên Nho giáo nguyên thủy, còn gọi là Nho giáo tiền Tần (trước đời Tần), Khổng giáo hay “tư tưởng Khổng – Mạnh“.

Đại Học

Đại học là một trong những kinh điển trọng yếu của nho gia. Xưa, người đến tuổi 15 thì vào học bậc đại học và được học sách này. Hai chữ “đại học” được nhà nho giải thích là “đại nhân chi học”, hiểu theo 2 nghĩa, là cái học của bậc đại nhân, và là cái học để trở thành bậc đại nhân. Cách giải thích ấy phần nào hé lộ về nội dung, mục đích của bộ sách. Đại học vốn chỉ là một thiên trong sách Lễ ký (Kinh Lễ sau này), được Tăng Sâm chế hóa thành. Tuy nhiên, nó chỉ thuộc bộ Tứ thư vào thời Tống, với sự xuất hiện cuốn Tứ thư tập chú của Chu Hi. Trên đại quan, sách Đại học gồm 2 phần: Phần đầu có một thiên gọi là Kinh, chép lại các lời nói của Khổng Tử; Phần sau là giảng giải của Tăng Tử, gọi là Truyện, gồm 9 thiên.

Tăng Sâm là người con chí hiếu

Đại học đưa ra ba cương lĩnh (gọi là tam cương lĩnh), bao gồm: Minh minh đức (làm sáng cái đức sáng của chính mình), Tân dân (làm mới cho dân, ngụ ý sau khi tự sửa mình thành tựu lại đứng ra giúp người cải cách, bỏ xấu theo tốt) và Chỉ ư chí thiện (an trú ở nơi chí thiện). Ba cương lĩnh này được cụ thể hóa bằng 8 điều mục nhỏ (gọi là bát điều mục), bao gồm: cách vật (tiếp cận và nhận thức sự vật), trí tri (đạt tri thức về sự vật), thành ý (làm cho ý của mình thành thực), chính tâm (làm cho tâm của mình được trung chính), tu thân (tu sửa thân mình), tề gia (xếp đặt mọi việc cho gia đình hài hòa), trị quốc (khiến cho nước được an trị), bình thiên hạ (khiến cho thiên hạ được yên bình).

Minh minh đức ứng với cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm và tu thân trong bát điều mục. Tân dân ứng với tề gia và trị quốc. Chỉ ư chí thiện tương ứng với bình thiên hạ. Bắt đầu từ chỗ làm sáng cái đức vốn sáng, vì có gốc gác tiên thiên của bản thân mình, lấy đó làm khởi điểm cho sự tu đức. Kết quả cuối cùng của quá trình này là làm cho toàn bộ thiên hạ được an trị, đó là cứu cánh của nó. Sự tu đức, được coi là phổ dụng cho tất cả mọi người. Đó là cái gọi là: “Tự thiên tử dĩ chí ư thứ nhân, nhất thị giai dĩ tu thân vi bản” (Nghĩa là: “từ vua cho đến thường dân, ai ai cũng đều lấy sự sửa mình làm gốc”). Sách Đại học dạy người ta cách tu thân và cai trị thiên hạ theo chủ trương “vi chính dĩ đức” của nho gia.

Khổng Tử dạy cháu

Trung Dung

Sách Trung Dung do Tử Tư làm ra cũng trên cơ sở một thiên trong Kinh Lễ. Tử Tư là học trò của Tăng Tử, cháu nội của Khổng Tử, thọ được cái học tâm truyền của Tăng Tử.

Trong sách Trung Dung, Tử Tư dẫn những lời của Khổng Tử nói về đạo “Trung dung”, tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức trung hòa, không thái quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành người quân tử, để cuối cùng thành thánh nhân. Sách Trung Dung chia làm hai phần:

Phần 1: từ chương 1 đến chương 20, là phần chính, gồm những lời của Khổng Tử dạy các học trò về đạo lý trung dung, phải làm sao cho tâm được: tồn, dưỡng, tĩnh, sát; mức ở được gồm đủ: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín cho hòa với muôn vật, hợp với lòng Trời để thành người tài giỏi.

Phần 2: từ chương 21 đến chương 33, là phần phụ, gồm những ý kiến của Tử Tư giảng giải thêm cho rõ ràng ý nghĩa và giá trị của hai chữ trung dung.

Luận Ngữ

Luận Ngữ là sách sưu tập ghi chép lại những lời dạy của Khổng Tử và những lời nói của người đương thời. Sách Luận Ngữ gồm 20 thiên, mỗi thiên đều lấy chữ đầu mà đặt tên, và các thiên không có liên hệ với nhau. Đọc sách này, người ta hiểu được phẩm chất tư cách và tính tình của Khổng Tử, nhất là về giáo dục, ông tỏ ra là người thấu hiểu tâm lý của từng học trò, khéo đem lời giảng dạy thích hợp với từng trình độ, từng hoàn cảnh của mỗi người. Như có khi cùng một câu hỏi mà ông trả lời cho mỗi người một cách. Trình Y Xuyên, một nhà Nho đời Tống nói: “Có người đọc xong Luận Ngữ mà không thấy gì cả, có người đọc xong lại thấy thích thú một vài câu, có người đọc xong thì rất thích thú đến độ múa tay múa chân mà không hay biết”. Bởi vậy, khi đọc Luận Ngữ, phải đọc chậm rãi, suy nghĩ tường tận, càng suy nghĩ càng phát hiện được nhiều điều hay. Trình Y Xuyên lại nói: “Ai đọc xong Luận Ngữ mà vẫn còn những tính nết như trước khi chưa đọc thì người ấy chưa hiểu được sách Luận Ngữ vậy”. Tóm lại sách Luận Ngữ dạy đạo quân tử một cách thực tiễn, miêu tả tính tình đức độ của Khổng Tử để làm mẫu mực cho người đời sau noi theo.

Mạnh Tử

Sách Mạnh Tử là bộ sách làm ra bởi Mạnh Tử và các môn đệ của ông như: Nhạc Chính Khắc, Công Tôn Sửu, Vạn Chương v.v. ghi chép lại những điều đối đáp của Mạnh Tử với các vua chư hầu, giữa Mạnh Tử và các học trò cùng với những lời phê bình của Mạnh Tử về các học thuyết khác như: học thuyết của Mặc Tử, Dương Tử, Dương Chu. Sách Mạnh Tử gồm 7 thiên, chia làm 2 phần: Tâm học và Chính trị học.

Mẹ Mạnh Tử dạy con

Tâm học: Từ thời Mạnh tử, ông cảm nhận được một đấng vô hình nên hay nhắc đến Trời. Mạnh Tử cho rằng mỗi người đều có tính thiện do Trời phú cho. Sự giáo dục phải lấy tính thiện đó làm cơ bản, giữ cho nó không mờ tối, trau dồi nó để phát triển thành người lương thiện. Tâm là cái thần minh của Trời ban cho người. Như vậy, tâm của ta với tâm của Trời đều cùng một thể. Học là để giữ cái Tâm, nuôi cái Tính, biết rõ lẽ Trời mà theo chính mệnh.

Nhân và nghĩa vốn có sẵn trong lương tâm của người. Chỉ vì ta đắm đuối vào vòng vật dục nên lương tâm bị mờ tối, thành ra bỏ mất nhân nghĩa. Mạnh Tử đề cập đến khí Hạo nhiên, cho rằng nó là cái tinh thần của người đã hợp nhất với Trời. Phần Tâm học của Mạnh Tử rất sâu xa, khiến học giả dù ở địa vị hay cảnh ngộ nào cũng giữ được phẩm giá tôn quý.

Chính trị học: Mạnh Tử chủ trương: Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh. Đây là một tư tưởng rất mới và rất táo bạo trong thời quân chủ chuyên chế đang thịnh hành.

Mạnh Tử nhìn nhận chế độ quân chủ, nhưng vua không có quyền lấy dân làm của riêng cho mình. Phải duy dân và vì dân. Muốn vậy, phải có luật pháp công bằng, dẫu vua quan cũng không được vượt ra ngoài pháp luật đó. Người trị dân, trị nước phải chăm lo việc dân việc nước, làm cho đời sống của dân được sung túc, phải lo giáo dục dân để hiểu rõ luật pháp mà tuân theo, lấy nhân nghĩa làm cơ bản để thi hành.

Chủ trương về chính trị của Mạnh Tử thật vô cùng mới mẻ và táo bạo, nhưng rất hợp lý, làm cho những người chủ trương quân chủ thời đó không thể nào bắt bẻ được. Có thể đây là lý thuyết khởi đầu để hình thành chế độ quân chủ lập hiến sau này. Tóm lại, bộ sách Mạnh Tử rất có giá trị với Nho giáo. Phần Tâm học trong sách là đỉnh cao nhất trong học thuyết Nho giáo. Trình Y Xuyên nói:Kẻ đi học nên lấy hai quyển sách: Luận Ngữ và Mạnh Tử làm cốt. Đã học được hai bộ sách này rồi thì không cần học Ngũ Kinh cũng rõ thông được cái đạo của Thánh hiền”.

Tài liệu tham khảo

1. Khổng Tử – Nguyễn Hiến Lê

2. Nho giáo – Trần Trọng Kim

Bạn có thể quan tâm đến những bài viết liên quan:

1. Cuộc đời Khổng Tử

2. Học trò của Khổng Tử

3. Đạo Nhân và con đường thực hiện lý tưởng thế giới đại đồng

4. Lời dạy của Khổng Tử – 50 câu tinh hoa trong Luận Ngữ

5. Lão Tử và Khổng Tử luận đạo

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *