Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ
Nguyễn Khoa Điềm
Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi,
Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ.
Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội,
Nhịp chày nghiêng, giấc ngủ em nghiêng.
Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi,
Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối,
Lưng đưa nôi và tim hát thành lời:
– Ngủ ngoan a kay ơi, ngủ ngoan a kay hỡi,
Mẹ thương a kay, mẹ thương bộ đội
Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần,
Mai sau con lớn vung chày lún sân…
Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi,
Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ.
Mẹ đang trỉa bắp trên núi Ka–lưi
Lưng núi thì to, mà lưng mẹ nhỏ,
Em ngủ ngoan em, đừng làm mẹ mỏi.
Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi,
Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng.
– Ngủ ngoan a kay ơi, ngủ ngoan a kay hỡi,
Mẹ thương a kay, mẹ thương làng đói.
Con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều
Mai sau con lớn phát mười Ka–lưi…
Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi,
Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ.
Mẹ đang chuyển lán, mẹ đi đạp rừng.
Thằng Mỹ đuổi ta phải rời con suối
Anh trai cầm súng, chị gái cầm chông,
Mẹ địu em đi để dành trận cuối.
Từ trên lưng mẹ em đến chiến trường,
Từ trong đói khổ em vào Trường Sơn.
– Ngủ ngoan a kay ơi, ngủ ngoan a kay hỡi,
Mẹ thương a kay, mẹ thương đất nước.
Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ,
Mai sau con lớn làm người Tự Do…
(Nguyễn Khoa Điềm – Ngữ văn 9 – Tập 1)
*
Đôi dòng cảm nhận về bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của Nguyễn Khoa Điềm
Bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm không chỉ là một bài thơ về tình mẫu tử mà còn là bản anh hùng ca về lòng yêu nước, sự hy sinh và những khát vọng lớn lao trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Qua lời ru dịu dàng mà đong đầy ý nghĩa, nhà thơ đã khắc họa hình ảnh người mẹ Tà-ôi – hiện thân của tình yêu, của sức mạnh và niềm tin bất diệt vào tương lai tươi sáng.
Hình ảnh em bé ngủ trên lưng mẹ là hình ảnh trung tâm của bài thơ, một biểu tượng vừa bình dị, vừa giàu sức gợi. Từ những câu thơ mở đầu, nhịp sống lao động của người mẹ hiện lên trong sự hòa quyện giữa gian lao và tình yêu thương:
“Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi,
Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ.
Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội,
Nhịp chày nghiêng, giấc ngủ em nghiêng.”
Người mẹ hiện lên với vai trò vừa là lao động nuôi quân, vừa là chỗ dựa vững chắc cho đứa con thơ. Nhịp chày giã gạo, những giọt mồ hôi rơi và hình ảnh đôi vai gầy của mẹ không chỉ khắc họa sự vất vả trong lao động mà còn là biểu tượng cho ý chí bền bỉ, kiên cường. Tấm lưng mẹ gánh cả con, cả cuộc sống mưu sinh và cả những giấc mơ bình dị mà lớn lao.
Những lời ru tiếp nối không chỉ dành cho em bé mà còn là lời tự sự của người mẹ, nơi mẹ gửi gắm khát vọng:
“Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần,
Mai sau con lớn vung chày lún sân…”
Giấc mơ của mẹ bắt nguồn từ thực tế cuộc sống, từ cái đói, cái khổ trong kháng chiến. Mẹ không chỉ mong con lớn khôn mà còn gửi vào con cả niềm tin về một tương lai tốt đẹp hơn, nơi mà cuộc sống no ấm không còn là ước vọng xa vời.
Không chỉ giã gạo nuôi quân, người mẹ Tà-ôi còn làm những công việc nặng nhọc như trỉa bắp trên núi Ka-lưi, chuyển lán, đạp rừng. Những hình ảnh đối lập giữa cái to lớn của núi rừng và cái nhỏ bé của lưng mẹ, giữa gian khó và sự hy sinh âm thầm, càng làm nổi bật sức mạnh phi thường của người mẹ:
“Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi,
Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng.”
Câu thơ chứa đựng hình ảnh đẹp và giàu ý nghĩa. Em bé là “mặt trời của mẹ”, là nguồn sống, là niềm hy vọng giúp mẹ vượt qua mọi gian nan. Với mẹ, con không chỉ là một sinh linh nhỏ bé mà còn là niềm tin về tương lai của dân tộc, nơi con sẽ lớn lên và tiếp nối cuộc chiến đấu bảo vệ quê hương.
Hình ảnh người mẹ càng trở nên cao cả khi bà địu con trên lưng vượt qua những hiểm nguy, đói khổ để đồng hành cùng dân làng trong kháng chiến:
“Mẹ đang chuyển lán, mẹ đi đạp rừng.
Thằng Mỹ đuổi ta phải rời con suối.
Anh trai cầm súng, chị gái cầm chông,
Mẹ địu em đi để dành trận cuối.”
Tấm lưng mẹ không chỉ gánh cuộc sống, gánh ước mơ mà còn đưa em bé “đến chiến trường”, “vào Trường Sơn”. Đứa trẻ thơ ngây trên lưng mẹ không chỉ là nhân chứng của những gian khó mà còn là mầm sống vươn lên từ trong khổ đau, một biểu tượng của tương lai tự do, hòa bình.
Khép lại bài thơ, lời ru của mẹ vang lên, thấm đượm tình yêu quê hương, đất nước:
“Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ,
Mai sau con lớn làm người Tự Do…”
Khát vọng tự do, độc lập của mẹ không chỉ dành cho con mà còn cho cả dân tộc. Lời ru của mẹ, qua những vần thơ của Nguyễn Khoa Điềm, không chỉ là lời yêu thương mà còn là tiếng nói của thời đại, của những con người sẵn sàng hy sinh tất cả vì hòa bình, vì tương lai.
Bài thơ vừa giàu tính nhạc, vừa giàu chất hiện thực. Những câu thơ mộc mạc, giản dị nhưng thấm đẫm cảm xúc, vừa gợi lên tình mẫu tử thiêng liêng, vừa khắc họa vẻ đẹp của tình yêu nước, lòng kiên cường. Qua bài thơ, Nguyễn Khoa Điềm không chỉ ca ngợi người mẹ Tà-ôi mà còn làm sáng lên hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong chiến tranh – những con người nhỏ bé mà vĩ đại. Bài thơ mãi là khúc hát ngợi ca tình yêu, niềm tin và sức mạnh của con người Việt Nam trong những năm tháng gian khó.
*
Về nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm
Nguyễn Khoa Điềm (sinh năm 1943) là một nhà thơ, nhà chính trị nổi tiếng của Việt Nam. Ông quê ở huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, gắn bó sâu sắc với quê hương và những năm tháng kháng chiến chống Mỹ.
Thơ Nguyễn Khoa Điềm nổi bật bởi giọng điệu trữ tình, sâu lắng, kết hợp hài hòa giữa cái “tôi” cá nhân và cái “ta” dân tộc. Tác phẩm của ông thường khắc họa vẻ đẹp con người Việt Nam trong chiến tranh, tình yêu đất nước, quê hương và khát vọng tự do.
Một trong những tác phẩm nổi bật nhất của ông là bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ”, giàu cảm xúc và ý nghĩa, thể hiện tình mẫu tử thiêng liêng và lòng yêu nước mãnh liệt. Với những đóng góp lớn cho văn học và cách mạng, Nguyễn Khoa Điềm đã được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật năm 2012.
Viên Ngọc Quý.