Đồng chí
Chính Hữu
Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ
Đồng chí!
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người, vừng trán ướt mồ hôi.
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
(Chính Hữu – SGK Ngữ văn 9 – tập 1)
*
Đôi dòng cảm nhận bài thơ Đồng chí của Chính Hữu
Bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu là một bản hùng ca giản dị mà thấm đượm tình đồng đội, tình người trong những năm tháng kháng chiến gian khổ. Qua từng câu thơ mộc mạc, nhà thơ không chỉ khắc họa hình ảnh những người lính Cách mạng mà còn làm sáng lên vẻ đẹp của tình cảm gắn bó keo sơn giữa họ – một tình cảm vượt lên mọi khó khăn, gian khổ để trở thành biểu tượng của sự đoàn kết và nhân văn.
Mở đầu bài thơ là những hình ảnh quê hương gợi lên sự nghèo khó, lam lũ:
“Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.”
Hai câu thơ đã vẽ nên bức tranh quê hương của những người lính xuất thân từ nông dân. Ở đó, người ta cảm nhận được sự cơ cực nhưng cũng thấy lòng kiên cường, bất khuất – nơi đã nuôi dưỡng ý chí và tinh thần cách mạng. Anh và tôi, tuy đến từ những miền quê xa lạ, tuy chẳng hề quen biết, nhưng chính lý tưởng chung và khát vọng hòa bình đã đưa họ sát cánh bên nhau:
“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.”
Câu thơ không chỉ miêu tả sự gặp gỡ của hai con người mà còn nói lên cái duyên kỳ ngộ của những trái tim đồng điệu. Tình cảm ấy lớn dần qua những gian khó, sẻ chia:
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ
Đồng chí!”
Từ “Đồng chí!” vang lên như một lời khẳng định chắc nịch, thiêng liêng về tình cảm giữa những người lính. Nó không chỉ là tình đồng đội mà còn là sự đồng lòng, đồng ý chí trong những ngày chiến đấu gian nan.
Bài thơ tiếp tục khắc họa sự hy sinh, khó khăn mà người lính phải đối mặt. Những câu thơ:
“Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!”
đã tái hiện một cách chân thực những thiếu thốn, lạnh giá của đời lính. Hình ảnh đôi bàn tay nắm chặt nhau là biểu tượng của sức mạnh tập thể, của lòng yêu thương giữa con người với con người, giúp họ vượt qua mọi thử thách.
Khép lại bài thơ, hình ảnh “Đầu súng trăng treo” không chỉ đẹp về mặt thi vị mà còn đầy ý nghĩa. Trăng là biểu tượng của hòa bình, của lãng mạn. Súng là biểu tượng của chiến tranh, của nhiệm vụ. Hai hình ảnh tương phản ấy khi đứng cạnh nhau đã hòa quyện làm một, tạo nên bức tranh vừa lãng mạn, vừa hiện thực, làm nổi bật khát vọng hòa bình của những người lính.
“Đồng chí” là bài thơ không dài, không cầu kỳ về ngôn từ, nhưng lại có sức mạnh lay động lòng người bởi sự giản dị và chân thành. Đọc bài thơ, ta không chỉ cảm nhận được những khó khăn mà người lính phải đối mặt, mà còn thêm yêu mến, trân trọng những con người đã hy sinh tuổi trẻ, hạnh phúc cá nhân để bảo vệ quê hương, đất nước. Bài thơ là khúc hát ca ngợi tinh thần đồng đội, đồng lòng và là nguồn cảm hứng bất tận về lòng yêu nước cho các thế hệ mai sau.
*
Nhà thơ Chính Hữu
Chính Hữu (1926–2007), tên thật là Trần Đình Đắc, là một nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca Cách mạng Việt Nam. Ông quê ở huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh, và tham gia hoạt động cách mạng từ sớm. Năm 1946, Chính Hữu gia nhập quân đội và gắn bó với cuộc kháng chiến chống Pháp, từ đó trở thành một cây bút viết về người lính và chiến tranh.
Thơ của Chính Hữu nổi bật bởi sự giản dị, súc tích và giàu cảm xúc. Ông thường khai thác những chi tiết chân thực của đời sống người lính để thể hiện vẻ đẹp tinh thần và sự hy sinh cao cả. Tác phẩm nổi bật nhất của ông là bài thơ “Đồng chí”, sáng tác năm 1948, được xem như tượng đài thi ca về tình đồng đội trong văn học Việt Nam.
Chính Hữu được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật năm 2000, ghi nhận những đóng góp to lớn của ông cho văn học nước nhà.
Viên Ngọc Quý.