Người đi tìm hình của nước
Chế Lan Viên
Đất nước đẹp vô cùng. Nhưng Bác phải ra đi
Cho tôi làm sóng dưới con tàu đưa tiễn Bác
Khi bờ bãi dần lui làng xóm khuất
Bốn phía nhìn không một bóng hàng tre
Đêm xa nước đầu tiên, ai nỡ ngủ
Sóng vỗ dưới thân tàu đâu phải sóng quê hương
Trời từ đây chẳng xanh màu xứ sở
Xa nước rồi, càng hiểu nước đau thương
Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp
Giấc mơ con đè nát cuộc đời con
Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp
Một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn
Trăm cơn mơ không chống nổi một đêm dày
Ta lại mặc cho mưa tuôn và gió thổi
Lòng ta thành con rối
Cho cuộc đời giật dây
Quanh hồ Gươm không ai bàn chuyện vua Lê
Lòng ta đã thành rêu phong chuyện cũ
Hiểu sao hết những tấm lòng lãnh tụ
Tìm đường đi cho dân tộc theo đi
Hiểu sao hết “Người đi tìm hình của Nước”
Không phải hình một bài thơ đá tạc nên người
Một góc quê hương nửa đời quen thuộc
Hay một đấng vô hình sương khói xa xôi
Mà hình đất nước hoặc còn hoặc mất
Sắc vàng nghìn xưa, sắc đỏ tương lai
Thế đi đứng của toàn dân tộc
Một cách vin hoa cho hai mươi lăm triệu con người
Có nhớ chăng hỡi gió rét thành Ba Lê
Một viên gạch hồng, Bác chống lại cả một mùa băng giá
Và sương mù thành Luân Đôn, ngươi có nhớ
Giọt mồ hôi Người nhỏ giữa đêm khuya?
Đời bồi tàu lênh đênh theo sóng bể
Người đi hỏi khắp bóng cờ châu Mỹ, châu Phi
Những đất tự do, những trời nô lệ
Những con đường cách mạng đang tìm đi
Đêm mơ nước, ngày thấy hình của nước
Cây cỏ trong chiêm bao xanh sắc biếc quê nhà
Ăn một miếng ngon cũng đắng lòng vì Tổ quốc
Chẳng yên lòng khi ngắm một nhành hoa
Ngày mai dân ta sẽ sống sao đây?
Sông Hồng chảy về đâu? Và lịch sử?
Bao giờ dải Trường Sơn bừng giấc ngủ
Cánh tay thần Phù Đổng sẽ vươn mây?
Rồi cờ sẽ ra sao? Tiếng hát sẽ ra sao?
Nụ cười sẽ ra sao?
Ơi, độc lập!
Xanh biết mấy là trời xanh Tổ quốc
Khi tự do về chói ở trên đầu
Kìa mặt trời Nga bừng chói ở phương Đông
Cây cay đắng đã ra mùa quả ngọt
Người cay đắng đã chia phần hạnh phúc
Sao vàng bay theo liềm búa công nông
Luận cương đến Bác Hồ. Và Người đã khóc
Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lênin
Bốn bức tường im nghe Bác lật từng trang sách gấp
Tưởng bên ngoài, đất nước đợi mong tin
Bác reo lên một mình như nói cùng dân tộc
“Cơm áo là đây! Hạnh phúc đây rồi!”
Hình của Đảng lồng trong hình của Nước
Phút khóc đầu tiên là phút Bác Hồ cười
Bác thấy:
dân ta bưng bát cơm mồ hôi nước mắt
Ruộng theo trâu về lại với người cày
Mỏ thiếc, hầm than, rừng vàng, bể bạc
Không còn người bỏ xác bên đường ray
Giặc nước đuổi xong rồi. Trời xanh thành tiếng hát
Điện theo trăng vào phòng ngủ công nhân
Những kẻ quê mùa đã thành trí thức
Tăm tối cần lao nay hoá những anh hùng
Nước Việt Nam nghìn năm Đinh Lý Trần Lê
Thành nước Việt nhân dân trong mát suối
Mái rạ nghìn năm hồng thay sắc ngói
Những đời thường cũng có bóng hoa che
Ôi! Đường đến với Lênin là đường về Tổ quốc…
Tuyết Mat-xcơ-va sáng ấy lạnh trăm lần
Trong tuyết trắng như đọng nhiều nước mắt
Lênin mất rồi. Nhưng Bác chẳng dừng chân
Luận cương của Lênin theo Người về quê Việt
Biên giới còn xa. Nhưng Bác thấy đã đến rồi
Kìa, bóng Bác đang hôn lên hòn đất
Lắng nghe trong màu hồng, hình đất nước phôi thai.
1960
Nguồn:
1. Ánh sáng và phù sa, NXB Văn học, 1960
2. Chế Lan Viên toàn tập, Vũ Thị Thường sưu tầm và biên soạn, NXB Văn học, 2002
*
“Người Đi Tìm Hình Của Nước” – Hành Trình Tìm Kiếm Ánh Sáng Cho Dân Tộc
Bài thơ “Người đi tìm hình của nước” của Chế Lan Viên là một bản trường ca hùng tráng, tái hiện hành trình vĩ đại và đầy gian nan của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi ra đi tìm đường cứu nước. Những câu thơ đong đầy cảm xúc không chỉ vẽ nên hình ảnh của một lãnh tụ vĩ đại mà còn là lời tự vấn, thức tỉnh những trái tim đang ngủ quên trong bóng tối.
Bước chân ra đi vì một hình hài Tổ quốc
Hình ảnh mở đầu bài thơ:
“Đất nước đẹp vô cùng. Nhưng Bác phải ra đi”
ẩn chứa nỗi đau chia ly, sự hy sinh lặng thầm và trách nhiệm nặng nề của một con người dành cho dân tộc. Chế Lan Viên dẫn dắt người đọc vào thế giới nội tâm của Bác Hồ, nơi có những giấc mơ không dành riêng cho bản thân, mà hướng về tương lai của hàng triệu con người.
Đêm đầu tiên xa nước, từng cơn sóng biển vỗ dưới thân tàu không còn là sóng quê hương. Trời xa lạ, không xanh như màu xứ sở. Chế Lan Viên đã khéo léo diễn tả nỗi nhớ quê da diết, hòa quyện với nỗi đau của một dân tộc bị áp bức, mất tự do:
“Xa nước rồi, càng hiểu nước đau thương.”
Sự hy sinh thầm lặng và lòng yêu nước lớn lao
Chế Lan Viên không chỉ nhắc về hành trình tìm kiếm lý tưởng của Bác mà còn khơi gợi sự đối lập giữa những con người “ngủ trong giường chiếu hẹp” với tầm nhìn bao la của Bác:
“Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp
Giấc mơ con đè nát cuộc đời con…”
Bác Hồ – con người mang cả nỗi đau và khát vọng của dân tộc – đã không ngừng dấn bước, đi khắp các lục địa, tìm kiếm ánh sáng cách mạng. Hình ảnh:
“Một viên gạch hồng, Bác chống lại cả một mùa băng giá”
trở thành biểu tượng cho ý chí phi thường và sự hy sinh lặng thầm.
Hình của nước – Giấc mơ về một ngày mai tươi sáng
Không chỉ đơn thuần tìm kiếm tự do, Bác còn mơ về một đất nước giàu đẹp, nơi con người được sống trong hạnh phúc, no ấm. Chế Lan Viên đã thổi vào những câu thơ khát vọng cháy bỏng:
“Ngày mai dân ta sẽ sống sao đây?
Sông Hồng chảy về đâu? Và lịch sử?”
Hành trình gian nan của Bác đã mở ra một con đường mới, để rồi:
“Hình của Đảng lồng trong hình của Nước
Phút khóc đầu tiên là phút Bác Hồ cười.”
Bác đã tìm thấy con đường cứu nước từ Luận cương của Lênin, đem ánh sáng về cho dân tộc, để “giấc mơ lớn” của đất nước được thành hình.
Thông điệp từ bài thơ – Trách nhiệm của mỗi thế hệ
“Người đi tìm hình của nước” không chỉ là bài thơ tôn vinh lãnh tụ mà còn là lời kêu gọi đến mỗi người con đất Việt. Trong hình ảnh Bác Hồ, ta thấy sự kiên cường, lòng yêu nước và tinh thần không ngừng vươn lên. Đó là tấm gương để mỗi người soi rọi, để vượt qua những “giấc mơ con” và cùng nhau dựng xây đất nước.
Chế Lan Viên đã khép lại bài thơ với hình ảnh đầy hy vọng:
“Kìa, bóng Bác đang hôn lên hòn đất
Lắng nghe trong màu hồng, hình đất nước phôi thai.”
Một đất nước mới đang dần hình thành, được nuôi dưỡng bởi trí tuệ, ý chí và tình yêu vô bờ của Bác Hồ.
Bài thơ khơi dậy niềm tự hào dân tộc, nhắc nhở chúng ta về những giá trị vĩnh cửu: lòng yêu nước, khát vọng tự do và trách nhiệm dựng xây tương lai. Đó chính là di sản quý giá mà Chế Lan Viên và Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho muôn đời.
*
Chế Lan Viên: Nhà thơ tài hoa với dấu ấn sáng tạo đặc biệt trong nền văn học Việt Nam
Chế Lan Viên, tên thật là Phan Ngọc Hoan (1920–1989), là một trong những gương mặt tiêu biểu của nền thơ ca hiện đại Việt Nam. Sinh ngày 20 tháng 10 năm 1920 tại xã Cam An, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị, nhưng ông lớn lên ở Quy Nhơn, Bình Định – vùng đất được xem như quê hương thứ hai, nơi nuôi dưỡng tâm hồn thi ca của ông.
Khởi đầu hành trình văn chương
Từ năm 12, 13 tuổi, Chế Lan Viên đã bắt đầu sáng tác thơ và đến năm 17 tuổi, ông xuất bản tập thơ đầu tay Điêu tàn. Đây là tác phẩm mở đầu cho “Trường Thơ Loạn,” đưa tên tuổi ông lên đỉnh cao văn đàn. Điêu tàn không chỉ là nỗi hoài niệm về vương quốc Chămpa mà còn là lời tuyên ngôn nghệ thuật đầy táo bạo, với những hình ảnh kỳ ảo, u hoài, và đậm chất suy tư.
Ông cùng với Hàn Mặc Tử, Yến Lan, và Quách Tấn tạo thành nhóm “Bàn thành tứ hữu,” làm rạng danh nền thi ca Bình Định.
Sự chuyển mình trong cách mạng
Cách mạng tháng Tám 1945 đánh dấu bước ngoặt lớn trong phong cách thơ của Chế Lan Viên. Từ những hình ảnh thần bí, hoang tàn, ông dần chuyển sang dòng thơ hiện thực, đậm chất sử thi và đầy nhiệt huyết cách mạng. Các tác phẩm của ông từ thời kỳ này như Ánh sáng và phù sa, Hoa ngày thường – Chim báo bão, hay Đối thoại mới phản ánh khát vọng hòa bình và tình yêu đất nước sâu sắc.
Năm 1949, Chế Lan Viên gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương và tích cực tham gia phong trào văn nghệ kháng chiến. Ông không ngừng sáng tạo, đóng góp cho nền văn học cách mạng qua hàng loạt tập thơ, bút ký, và tiểu luận, để lại dấu ấn lớn trong lòng người đọc.
Phong cách sáng tác độc đáo
Thơ Chế Lan Viên nổi bật bởi sức mạnh trí tuệ và chiều sâu triết lý. Ông thường khai thác những đối lập, tạo nên sự sắc nét trong từng câu chữ. Ngôn từ của ông giàu hình ảnh biểu tượng, mang vẻ đẹp suy tưởng, giúp người đọc nhìn thấu sự phức tạp, đa diện của đời sống.
Nếu trước cách mạng, thơ ông là những ám ảnh về sự điêu tàn, đổ nát, thì sau cách mạng, đó là khát khao xây dựng đất nước, khát vọng vươn lên của con người Việt Nam.
Con người thẳng thắn và tài năng hùng biện
Không chỉ là một nhà thơ tài hoa, Chế Lan Viên còn nổi tiếng bởi tính cách thẳng thắn và khả năng biện luận sắc sảo. Ông luôn khuyến khích các văn nghệ sĩ dũng cảm phản ánh thực tại, không e ngại phê phán cái xấu trong xã hội. Dù điều này khiến ông đôi khi bị hiểu lầm, nhưng những người hiểu ông luôn trân trọng sự tận tụy và tấm lòng vì nghệ thuật của ông.
Di sản văn học rực rỡ
Với hàng loạt tập thơ, tiểu luận, và bút ký, Chế Lan Viên đã để lại một kho tàng văn học đồ sộ. Ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật năm 1996, ghi nhận những đóng góp to lớn cho nền văn chương nước nhà.
Chế Lan Viên đã sống và sáng tác bằng tất cả trái tim và trí tuệ của mình, để lại dấu ấn sâu sắc không chỉ trong lòng người đọc mà còn trong dòng chảy văn hóa dân tộc. Ông chính là minh chứng cho sự sáng tạo không ngừng và sức mạnh vươn lên của một tâm hồn lớn.
Viên Ngọc Quý.