Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?
Chế Lan Viên
Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm
Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?
– Chưa đâu! Và ngay cả trong những ngày đẹp nhất
Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc
Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hoá thành văn
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc
Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng…
Những ngày tôi sống đây là ngày đẹp hơn tất cả
Dù mai sau đời muôn vạn lần hơn!
Trái cây rơi vào áo người ngắm quả
Đường nhân loại đi qua bóng lá xanh rờn
Mặt trời đến mỗi ngày như khách lạ
Gặp mỗi mặt người đều muốn ghé môi hôn…
Cha ông xưa từng đấm nát tay trước cửa cuộc đời
Cửa vẫn đóng và Đời im ỉm khoá
“Những pho tượng chùa Tây Phương” không biết cách trả lời
Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ…
Văn chiêu hồn từng thấm giọt mưa rơi!
Có phải cha ông đến sớm chăng và cháu con thì lại muộn
Dẫu có bay giữa trăng sao cũng tiếc không được sống phút bây giờ
Buổi đất nước của Hùng Vương có Đảng
Mỗi người dân đều được thấy Bác Hồ
Thịt xương ta giặc phơi ngoài bãi bắn
Lại tái sinh từ Pắc Bó, Ba Tơ…
Không ai có thể ngủ yên trong đời chật
Buổi thuỷ triều vẫy gọi những vầng trăng
Mỗi gié lúa đều muốn thêm nhiều hạt
Gỗ trăm cây đều muốn hoá nên trầm
Mỗi chú bé đều nằm mơ ngựa sắt
Mỗi con sông đều muốn hoá Bạch Đằng…
Ôi! Trường Sơn vĩ đại của ta ơi!
Ta tựa vào Ngươi, kéo pháo lên đồi
Ta tựa vào Đảng ta, lên tiếng hát
Dưới chân ta, đến đầu hàng Đờ Cát
Rồng năm móng vua quan thành bụi đất
Mỗi trang thơ đều dội tiếng ta cười!
Đều lộng hương thơm những cánh đồng hợp tác
Chim cu gần, chim cu gáy xa xa…
Ruộng đoàn tụ nên người thôi chia cắt
Đêm no ấm, giọng chèo khuya khoan nhặt
Lúa thêm mùa khi lúa chín về ta
Rồi với đôi tay trắng từ Đinh, Lý, Trần, Lê… Đảng làm nên công nghiệp
Điện trời ta là sóng nước sông Hồng
An Dương Vương hãy dậy cùng ta xây sắt thép
Loa thành này có đẹp mắt Người chăng?
Ong bay nhà khu tỉnh uỷ Hưng Yên
Mật đồng bằng mùa nhãn ngọt môi em
Cây xanh ngắt đất bạc màu Vĩnh Phúc…
Ôi! cái thuở lòng ta yêu Tổ quốc
Hạnh phúc nào không hạnh phúc đầu tiên?
Ôi, cái buổi sinh thành và tái tạo
Khi thiếu súng và khi thì thiếu gạo
Nhưng phù sa này đẻ ra những Cà Mau thịnh vượng mai sau
Dẫu là Chúa cũng sinh từ ruột máu
Ta đẻ ra Đời, sao khỏi những cơn đau
Hãy biết ơn vị muối của đời cho thơ chất mặn!
Ôi! thương thay những thế kỷ vắng anh hùng
Những đất nước thiếu người cầm thanh gươm nghìn cân ra trận…
Nhà thơ sinh đồng thời với mưa phùn và những buổi hoàng hôn
Cả xứ sở trắng một màu mây trắng!
Ai biết mây trên trời buồn hơn hay thơ mặt đất buồn hơn?
Chọn thời mà sống chăng? Anh sẽ chọn năm nào đấy nhỉ?
Cho tôi sinh ra buổi Đảng dựng xây đời
Mắt được thấy dòng sông ra gặp bể
Ta với mẻ thép gang đầu là đứa trẻ sinh đôi
Nguyễn Văn Trỗi ra đi còn dạy chúng ta cười…
Cho tôi sinh giữa những ngày diệt Mỹ
Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến luỹ
Bên những dũng sĩ đuổi xe tăng ngoài đồng và hạ trực thăng rơi
(Nhà viết Hồ Tây, gần ngày kỷ niệm Đảng 1965)
*
Tổ Quốc Bao Giờ Đẹp Thế Này Chăng? – Bài Ca Vang Vọng Hào Khí Thời Đại
Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng? – câu hỏi mở đầu bài thơ của Chế Lan Viên không chỉ là một lời tự vấn, mà còn là tiếng reo vui, là sự khẳng định đầy kiêu hãnh về vẻ đẹp của đất nước trong những ngày tháng rực rỡ nhất. Bài thơ là khúc tráng ca về một dân tộc từng chịu nhiều đau thương nhưng đã đứng lên, vượt qua muôn vàn gian khổ, để vươn mình tỏa sáng dưới ánh sáng của hòa bình, độc lập và hạnh phúc.
Hào khí ngàn năm – Di sản từ quá khứ oai hùng
Mở đầu bài thơ, Chế Lan Viên đưa người đọc trở về dòng lịch sử kiêu hùng của dân tộc, nơi cha ông đã để lại những dấu ấn bất diệt:
“Chưa đâu! Và ngay cả trong những ngày đẹp nhất
Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc
Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hoá thành văn
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc
Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng…”
Những vần thơ tái hiện những thời khắc rực rỡ trong quá khứ – từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, đến Nguyễn Huệ và Hưng Đạo. Những tên tuổi lớn không chỉ làm rạng danh đất nước bằng chiến công mà còn bằng văn chương, nghệ thuật, tạo nên nền tảng văn hóa bất diệt.
Nhưng điều đáng chú ý là Chế Lan Viên không dừng lại ở việc ngợi ca quá khứ. Ông khẳng định rằng những ngày ông đang sống – những ngày đất nước đổi mới dưới ánh sáng của Đảng và Bác Hồ – còn đẹp hơn cả những vinh quang xưa.
Vẻ đẹp của hiện tại – Tổ quốc hồi sinh từ đau thương
Bài thơ chuyển từ dòng chảy lịch sử sang hiện thực, với niềm tự hào cháy bỏng về sự thay đổi của đất nước:
“Những ngày tôi sống đây là ngày đẹp hơn tất cả
Dù mai sau đời muôn vạn lần hơn!”
Chế Lan Viên khắc họa hình ảnh một đất nước đang chuyển mình mạnh mẽ. Những trái cây rơi vào áo người ngắm quả, bóng lá xanh rợp đường đi, mặt trời như muốn ghé môi hôn từng khuôn mặt – tất cả những chi tiết nhỏ nhặt nhất đều ánh lên vẻ đẹp của sự sống, của hòa bình.
Nhưng sự hồi sinh này không tự nhiên mà có. Đằng sau ánh sáng rực rỡ ấy là máu xương của cha ông, là những hy sinh lớn lao của dân tộc:
“Thịt xương ta giặc phơi ngoài bãi bắn
Lại tái sinh từ Pắc Bó, Ba Tơ…”
Khát vọng vươn lên – Từ đất nước đến mỗi con người
Chế Lan Viên không chỉ miêu tả vẻ đẹp của đất nước, mà còn khơi gợi khát vọng vươn lên của mỗi cá nhân. Từ những hạt lúa muốn thêm đầy, gỗ muốn hóa thành trầm, đến những chú bé mơ cưỡi ngựa sắt, mọi thứ đều hướng đến một tương lai tốt đẹp hơn:
“Mỗi chú bé đều nằm mơ ngựa sắt
Mỗi con sông đều muốn hoá Bạch Đằng…”
Tổ quốc, trong mắt Chế Lan Viên, không chỉ là dải đất hình chữ S, mà là khát vọng, là sức mạnh tinh thần, là tình yêu bất tận của con người đối với quê hương.
Lòng biết ơn và tình yêu vô bờ với Tổ quốc
Đỉnh cao của bài thơ nằm ở tình cảm tri ân sâu sắc mà Chế Lan Viên dành cho Tổ quốc và những người đi trước:
“Hãy biết ơn vị muối của đời cho thơ chất mặn!”
Đối với ông, mọi đau thương, mọi hy sinh đều là những giá trị thiêng liêng, là nền móng để dựng xây một đất nước hùng mạnh. Ông thấu hiểu rằng hạnh phúc hôm nay được xây dựng từ những cơn đau sinh thành, từ máu và nước mắt của cả một dân tộc.
Lựa chọn thời đại – Niềm tự hào sống trong thời khắc lịch sử
Cuối bài thơ, Chế Lan Viên tự hỏi rằng nếu được chọn thời đại để sống, ông sẽ chọn thời điểm nào. Câu trả lời không chút do dự:
“Cho tôi sinh ra buổi Đảng dựng xây đời
Mắt được thấy dòng sông ra gặp bể…”
Ông muốn sống trong những ngày đất nước đứng lên đánh Mỹ, trong những ngày người dân từng bước xây dựng cuộc sống mới. Với ông, đó là thời điểm thiêng liêng nhất, đáng sống nhất, nơi ông có thể góp phần vào sự thay đổi của dân tộc.
Thông điệp sâu sắc của bài thơ
Bài thơ “Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?” là lời khẳng định mạnh mẽ rằng vẻ đẹp của đất nước không chỉ nằm ở thiên nhiên tươi đẹp hay những chiến công oanh liệt, mà còn ở sức sống mãnh liệt, ở sự đổi thay từng ngày, từng giờ dưới ánh sáng của lý tưởng.
Chế Lan Viên đã truyền tải một thông điệp đầy cảm hứng: Hãy yêu và biết ơn Tổ quốc, bởi mỗi khoảnh khắc bạn sống đều được vun đắp từ những hy sinh lớn lao của cha ông. Và hãy sống sao cho xứng đáng với những ngày tháng thiêng liêng ấy.
Bài thơ là tiếng gọi từ trái tim, khơi dậy trong lòng mỗi người đọc niềm tự hào và trách nhiệm đối với quê hương, đất nước – để mỗi ngày đều là một ngày đẹp hơn, rực rỡ hơn.
Chế Lan Viên: Nhà thơ tài hoa với dấu ấn sáng tạo đặc biệt trong nền văn học Việt Nam
Chế Lan Viên, tên thật là Phan Ngọc Hoan (1920–1989), là một trong những gương mặt tiêu biểu của nền thơ ca hiện đại Việt Nam. Sinh ngày 20 tháng 10 năm 1920 tại xã Cam An, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị, nhưng ông lớn lên ở Quy Nhơn, Bình Định – vùng đất được xem như quê hương thứ hai, nơi nuôi dưỡng tâm hồn thi ca của ông.
Khởi đầu hành trình văn chương
Từ năm 12, 13 tuổi, Chế Lan Viên đã bắt đầu sáng tác thơ và đến năm 17 tuổi, ông xuất bản tập thơ đầu tay Điêu tàn. Đây là tác phẩm mở đầu cho “Trường Thơ Loạn,” đưa tên tuổi ông lên đỉnh cao văn đàn. Điêu tàn không chỉ là nỗi hoài niệm về vương quốc Chămpa mà còn là lời tuyên ngôn nghệ thuật đầy táo bạo, với những hình ảnh kỳ ảo, u hoài, và đậm chất suy tư.
Ông cùng với Hàn Mặc Tử, Yến Lan, và Quách Tấn tạo thành nhóm “Bàn thành tứ hữu,” làm rạng danh nền thi ca Bình Định.
Sự chuyển mình trong cách mạng
Cách mạng tháng Tám 1945 đánh dấu bước ngoặt lớn trong phong cách thơ của Chế Lan Viên. Từ những hình ảnh thần bí, hoang tàn, ông dần chuyển sang dòng thơ hiện thực, đậm chất sử thi và đầy nhiệt huyết cách mạng. Các tác phẩm của ông từ thời kỳ này như Ánh sáng và phù sa, Hoa ngày thường – Chim báo bão, hay Đối thoại mới phản ánh khát vọng hòa bình và tình yêu đất nước sâu sắc.
Năm 1949, Chế Lan Viên gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương và tích cực tham gia phong trào văn nghệ kháng chiến. Ông không ngừng sáng tạo, đóng góp cho nền văn học cách mạng qua hàng loạt tập thơ, bút ký, và tiểu luận, để lại dấu ấn lớn trong lòng người đọc.
Phong cách sáng tác độc đáo
Thơ Chế Lan Viên nổi bật bởi sức mạnh trí tuệ và chiều sâu triết lý. Ông thường khai thác những đối lập, tạo nên sự sắc nét trong từng câu chữ. Ngôn từ của ông giàu hình ảnh biểu tượng, mang vẻ đẹp suy tưởng, giúp người đọc nhìn thấu sự phức tạp, đa diện của đời sống.
Nếu trước cách mạng, thơ ông là những ám ảnh về sự điêu tàn, đổ nát, thì sau cách mạng, đó là khát khao xây dựng đất nước, khát vọng vươn lên của con người Việt Nam.
Con người thẳng thắn và tài năng hùng biện
Không chỉ là một nhà thơ tài hoa, Chế Lan Viên còn nổi tiếng bởi tính cách thẳng thắn và khả năng biện luận sắc sảo. Ông luôn khuyến khích các văn nghệ sĩ dũng cảm phản ánh thực tại, không e ngại phê phán cái xấu trong xã hội. Dù điều này khiến ông đôi khi bị hiểu lầm, nhưng những người hiểu ông luôn trân trọng sự tận tụy và tấm lòng vì nghệ thuật của ông.
Di sản văn học rực rỡ
Với hàng loạt tập thơ, tiểu luận, và bút ký, Chế Lan Viên đã để lại một kho tàng văn học đồ sộ. Ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật năm 1996, ghi nhận những đóng góp to lớn cho nền văn chương nước nhà.
Chế Lan Viên đã sống và sáng tác bằng tất cả trái tim và trí tuệ của mình, để lại dấu ấn sâu sắc không chỉ trong lòng người đọc mà còn trong dòng chảy văn hóa dân tộc. Ông chính là minh chứng cho sự sáng tạo không ngừng và sức mạnh vươn lên của một tâm hồn lớn.
Viên Ngọc Quý.