Các vị La Hán chùa Tây Phương
Huy Cận
Các vị La Hán chùa Tây Phương
Tôi đến thăm về lòng vấn vương.
Há chẳng phải đây là xứ Phật,
Mà sao ai nấy mặt đau thương?
Đây vị xương trần chân với tay
Có chi thiêu đốt tấm thân gầy
Trầm ngâm đau khổ sâu vòm mắt
Tự bấy ngồi y cho đến nay.
Có vị mắt giương, mày nhíu xệch
Trán như nổi sóng biển luân hồi
Môi cong chua chát, tâm hồn héo
Gân vặn bàn tay mạch máu sôi.
Có vị chân tay co xếp lại
Tròn xoe từa thể chiếc thai non
Nhưng đôi tai rộng dài ngang gối
Cả cuộc đời nghe đủ chuyện buồn….
Các vị ngồi đây trong lặng yên
Mà nghe giông bão nổ trăm miền
Như từ vực thẳm đời nhân loại
Bóng tối đùn ra trận gió đen.
Mỗi người một vẻ, mặt con người
Cuồn cuộn đau thương cháy dưới trời
Cuộc họp lạ lùng trăm vật vã
Tượng không khóc cũng đổ mồ hôi.
Mặt cúi nghiêng, mặt ngoảnh sau
Quay theo tám hướng hỏi trời sâu
Một câu hỏi lớn. Không lời đáp
Cho đến bây giờ mặt vẫn chau.
Có thực trên đường tu đến Phật
Trần gian tìm cởi áo trầm luân
Bấy nhiêu quằn quại run lần chót
Các vị đau theo lòng chúng nhân?
Nào đâu, bác thợ cả xưa đâu?
Sống lại cho tôi hỏi một câu:
Bác tạc bấy nhiêu hình khô hạnh
Thật chăng chuyện Phật kể cho nhau?
Hay bấy nhiêu hồn trong gió bão
Bấy nhiêu tâm sự, bấy nhiêu đời
Là cha ông đó bằng xương máu
Đã khổ, không yên cả đứng ngồi.
Cha ông năm tháng đè lưng nặng
Những bạn đương thời của Nguyễn Du
Nung nấu tâm can vò võ trán
Đau đời có cứu được đời đâu.
Đứt ruột cha ông trong cái thuở
Cuộc sống giậm chân hoài một chỗ
Bao nhiêu hi vọng thúc bên sườn
Héo tựa mầm non thiếu ánh dương.
Hoàng hôn thế kỷ phủ bao la
Sờ soạng, cha ông tìm lối ra
Có phải thế mà trên mặt tượng
Nửa như khói ám, nửa sương tà.
Các vị La Hán chùa Tây Phương!
Hôm nay xã hội đã lên đường
Tôi nhìn mặt tượng dường tươi lại
Xua bóng hoàng hôn, tản khói sương.
Cha ông yêu mến thời xưa cũ
Trần trụi đau thương bỗng hoá gần!
Những bước mất đi trong thớ gỗ
Về đây, tươi vạn dặm đường xuân.
*
“Những Gương Mặt Vĩnh Cửu Của Đau Thương và Hy Vọng”
Bài thơ Các vị La Hán chùa Tây Phương của Huy Cận là một áng thơ mang tính triết lý sâu sắc, kết nối giữa những tượng La Hán xưa cũ và thực tại của dân tộc Việt Nam qua dòng chảy thời gian. Mỗi bức tượng không chỉ là nghệ thuật, mà còn là biểu tượng sống động của những khổ đau, đấu tranh và hy vọng mà con người đã trải qua.
Nỗi đau khắc sâu trên tượng đá
Ngay từ những câu thơ đầu, Huy Cận dẫn dắt chúng ta đến không gian chùa Tây Phương, nơi các vị La Hán hiện diện:
Há chẳng phải đây là xứ Phật,
Mà sao ai nấy mặt đau thương?
Những bức tượng La Hán – thường được coi là biểu tượng của sự giác ngộ và an nhiên – ở đây lại mang nặng nét mặt đau khổ. Từng đường nét trên gương mặt, từng dáng vẻ đều như khắc họa nỗi đau nhân thế.
Mỗi người một vẻ, mặt con người
Cuồn cuộn đau thương cháy dưới trời.
Những dáng ngồi “trầm ngâm đau khổ”, “mắt giương, mày nhíu xệch”, đôi tay gân guốc như kể lại cả một đời vật lộn với những bão tố cuộc sống. Những hình tượng ấy không đơn thuần là biểu hiện của sự giác ngộ, mà còn là lời nhắc nhở về kiếp nhân sinh đầy khổ đau, bấp bênh.
Nỗi đau của tượng – Nỗi đau của cha ông
Bằng ngôn ngữ giàu hình ảnh và cảm xúc, Huy Cận đặt câu hỏi lớn về nguồn gốc của những bức tượng:
Bác tạc bấy nhiêu hình khô hạnh
Thật chăng chuyện Phật kể cho nhau?
Phải chăng những bức tượng không chỉ là biểu tượng của Phật giáo, mà còn là hiện thân của cha ông? Những gương mặt ấy không chỉ thuộc về một thời đại mà trải qua cả những tháng năm lịch sử đau thương của dân tộc.
Cha ông năm tháng đè lưng nặng,
Những bạn đương thời của Nguyễn Du.
Nỗi đau khổ ấy là chung của cả một thế hệ – những con người bị chèn ép, đè nén dưới hoàng hôn của thế kỷ. Tâm sự của họ, ẩn chứa trong những gương mặt ấy, trở thành một lời than thở không lời, một câu hỏi lớn chưa từng có đáp án.
Hy vọng và ánh sáng của hiện tại
Tuy nhiên, bài thơ không chỉ dừng lại ở nỗi đau mà còn mở ra một con đường hy vọng. Huy Cận đã khéo léo đưa vào hình ảnh của sự chuyển mình:
Hôm nay xã hội đã lên đường
Tôi nhìn mặt tượng dường tươi lại.
Trong ánh sáng của một thời đại mới, những gương mặt La Hán dường như cũng bừng sáng, từ bỏ những mảng “khói ám” và “sương tà” của quá khứ. Đây chính là sự hồi sinh của niềm tin và hy vọng, là sự gắn kết giữa những thế hệ cha ông và con cháu.
Thông điệp của bài thơ
Bài thơ không chỉ tôn vinh nghệ thuật chạm khắc của các nghệ nhân Việt Nam mà còn mang thông điệp nhân văn sâu sắc. Các tượng La Hán chùa Tây Phương là minh chứng cho những đau thương và khổ nạn mà cha ông đã trải qua, nhưng đồng thời cũng là lời nhắc nhở về ý chí quật cường và niềm tin vào tương lai tươi sáng.
Huy Cận đã khép lại bài thơ bằng một hình ảnh đầy hy vọng:
Những bước mất đi trong thớ gỗ
Về đây, tươi vạn dặm đường xuân.
Trong sự trường tồn của nghệ thuật, trong sự chuyển mình của thời đại, nỗi đau dần hóa thành niềm tin, và những khổ đau của quá khứ trở thành động lực để xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn. Các vị La Hán chùa Tây Phương là bài ca về sự kết nối vĩnh cửu giữa con người, nghệ thuật và lịch sử.
*
Nhà Thơ Huy Cận – Một Thi Nhân Tài Hoa và Nhà Chính Trị Xuất Chúng
Huy Cận (1919–2005) là một trong những gương mặt nổi bật của nền văn học Việt Nam hiện đại, đặc biệt trong phong trào Thơ mới. Không chỉ dừng lại ở vai trò một thi sĩ, ông còn là một chính khách tài năng, đóng góp không nhỏ cho sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, chính trị nước nhà.
Tuổi thơ và con đường học vấn
Sinh ngày 31 tháng 5 năm 1919 tại làng Ân Phú, huyện Đức Thọ (nay thuộc huyện Vũ Quang, Hà Tĩnh), Huy Cận lớn lên trong một gia đình nhà nho nghèo nhưng giàu truyền thống học vấn. Ngay từ nhỏ, ông đã bộc lộ năng khiếu văn chương đặc biệt. Sau khi hoàn thành bậc trung học tại Huế và đỗ tú tài Pháp, Huy Cận ra Hà Nội học tại trường Cao đẳng Canh nông. Trong thời gian này, ông ở cùng nhà với Xuân Diệu, người bạn tri kỷ suốt đời của ông.
Con đường thơ ca – Từ nỗi buồn siêu hình đến hơi thở cuộc sống
Huy Cận bước vào làng văn học với tập thơ “Lửa Thiêng” (1940), được coi là một trong những đỉnh cao của phong trào Thơ mới. Tập thơ mang nỗi buồn mênh mang, hiu quạnh, thể hiện những suy tư triết lý về kiếp người và vũ trụ. Nỗi buồn trong thơ ông vừa siêu hình, vừa sâu lắng, để lại ấn tượng mạnh mẽ trong lòng độc giả.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, thơ Huy Cận có sự chuyển mình rõ rệt, tràn đầy niềm vui và hơi thở cuộc sống. Những tập thơ như “Trời mỗi ngày lại sáng” (1958) hay “Đất nở hoa” (1960) phản ánh tinh thần lạc quan và niềm tin vào sự đổi mới của đất nước.
Ông không ngừng sáng tác, để lại nhiều tác phẩm giá trị như “Ngày hằng sống ngày hằng thơ” (1975), “Hạt lại gieo” (1984), và “Ta về với biển” (1997). Nhiều bài thơ của ông được phổ nhạc, trở thành những tác phẩm âm nhạc bất hủ như “Ngậm ngùi” (Phạm Duy) hay “Buồn đêm mưa” (Phạm Đình Chương).
Hành trình chính trị và những cống hiến to lớn
Không chỉ là một nhà thơ xuất sắc, Huy Cận còn là một chính khách tài ba. Ông từng giữ nhiều chức vụ quan trọng như Bộ trưởng Bộ Canh nông, Thứ trưởng Bộ Văn hóa, và Bộ trưởng đặc trách Văn hóa Thông tin. Ông cũng là một trong những thành viên chủ chốt của phái đoàn Chính phủ Lâm thời tiếp nhận lễ thoái vị của vua Bảo Đại.
Huy Cận cũng tham gia Quốc dân đại hội Tân Trào và được bầu vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Trong suốt sự nghiệp, ông luôn là cầu nối giữa văn hóa và chính trị, thúc đẩy sự phát triển của văn học nghệ thuật trong giai đoạn đầy biến động của đất nước.
Giải thưởng và vinh danh
Huy Cận được phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I, năm 1996) và được bầu làm Viện sĩ Viện Hàn lâm Thơ Thế giới vào năm 2001. Sau khi qua đời vào năm 2005, ông được Nhà nước truy tặng Huân chương Sao Vàng – phần thưởng cao quý nhất của Việt Nam.
Di sản để lại
Huy Cận để lại một di sản thơ ca đồ sộ với những tác phẩm giàu giá trị nghệ thuật và tư tưởng. Tâm hồn ông là sự hòa quyện giữa cái nhìn nhân văn, triết lý sâu sắc và tình yêu quê hương, đất nước. Đồng thời, ông cũng là biểu tượng cho sự kết hợp hài hòa giữa trí tuệ văn chương và bản lĩnh chính trị.
Ngày nay, tên tuổi Huy Cận được lưu danh qua các con đường, ngôi trường tại quê nhà Hà Tĩnh và nhiều tỉnh thành khác. Thơ ca của ông vẫn sống mãi trong lòng bạn đọc, như một chứng nhân cho sự chuyển mình của đất nước và tâm hồn người Việt qua từng thời kỳ lịch sử.
Viên Ngọc Quý.