Trở về với mẹ ta thôi
Đồng Đức Bốn
1.
Cả đời ra bể vào ngòi
Mẹ như cây lá giữa trời gió rung
Cả đời buộc bụng thắt lưng
Mẹ như tằm nhả bỗng dưng tơ vàng
Đường đời còn rộng thênh thang
Mà tóc mẹ đã bạc sang trắng trời
Mẹ đau vẫn giữ tiếng cười
Mẹ vui vẫn để một đời nhớ thương
Bát cơm và nắng chan sương
Đói no con mẹ sẻ nhường cho nhau
Mẹ ra bới gió chân cầu
Tìm câu hát đã từ lâu dập vùi.
2.
Chẳng ai biết đến mẹ tôi
Bạc phơ mái tóc bên trời hoa mơ
Còng lưng gánh chịu gió mưa
Nát chân tìm cái chửa chưa có gì
Cầm lòng bán cái vàng đi
Để mua những cái nhiều khi không vàng.
3.
Mẹ mua lông vịt chè chai
Trời trưa mưa nắng đôi vai lại gầy
Xóm quê còn lắm bùn lầy
Phố phường còn ít bóng cây che đường
Lời rao chìm giữa gió sương
Con nghe cách mấy thôi đường còn đau.
4.
Giữa khi cát bụi đầy trời
Sao mẹ lại bỏ kiếp người lầm than
Con vừa vượt núi băng ngàn
Về nhà chỉ kịp đội tang ra đồng
Trời hôm ấy chửa hết giông
Đất hôm ấy chẳng còn bông lúa vàng
Đưa mẹ lần cuối qua làng
Ba hồn bảy vía con mang vào mồ
Mẹ nằm như lúc còn thơ
Mà con trước mẹ già nua thế này.
5.
Trở về với mẹ ta thôi
Giữa bao la một khoảng trời đắng cay
Mẹ không còn nữa để gầy
Gió không còn nữa để say tóc buồn
Người không còn dại để khôn
Nhớ thương rồi cũng vùi chôn đất mềm
Tôi còn nhớ hay đã quên
Áo nâu mẹ vẫn bạc bên nắng chờ
Nhuộm tôi hồng những câu thơ
Tháng năm tạc giữa vết nhơ của trời
Trở về với mẹ ta thôi
Lỡ mai chết lại mồ côi dưới mồ.
Hải Phòng, tháng 3 năm 1986
Bài thơ được nhạc sĩ Trần Quang Lộc phổ nhạc thành bài hát cùng tên.
Ở trên là bài thơ dẫn theo Chim mỏ vàng và hoa cỏ độc. Tập thơ Con ngựa trắng và rừng quả đắng chỉ in hai đoạn đầu với tiêu đề Mẹ tôi.
Nguồn:
1. Đồng Đức Bốn, Chim mỏ vàng và hoa cỏ độc, NXB Hội nhà văn, 2006
2. Đồng Đức Bốn, Con ngựa trắng và rừng quả đắng (thơ), NXB Văn học, 1992
*
Trở Về Với Mẹ Ta Thôi – Hồn Thơ Lục Bát Chạm Đến Tận Cùng Nỗi Đau Và Yêu Thương
“Trở về với mẹ ta thôi” của Đồng Đức Bốn là một bài thơ lục bát vừa đậm chất dân gian, vừa thấm đẫm nỗi niềm nhân sinh sâu sắc. Bài thơ như một bức tranh chân thực về tình mẹ con, về những hy sinh thầm lặng và nỗi đau chia xa không thể nói thành lời. Đồng thời, bài thơ còn là tiếng lòng day dứt của người con với những gì đã qua, như một lời nhắc nhở khắc sâu trong tim mỗi người: đừng để muộn màng khi nói lời tri ân với mẹ.
Nỗi lòng người mẹ: Biểu tượng của sự hy sinh thầm lặng
Ngay từ những câu thơ đầu tiên, hình ảnh người mẹ hiện lên như một biểu tượng cao cả của tình yêu thương và sự hy sinh:
Cả đời buộc bụng thắt lưng
Mẹ như tằm nhả bỗng dưng tơ vàng
Người mẹ trong thơ Đồng Đức Bốn không chỉ gánh vác cả đời gian khó mà còn âm thầm dệt nên những điều tốt đẹp cho con. Mẹ, giống như cây tằm, nhả ra những sợi tơ quý giá từ chính mình để nuôi nấng và che chở gia đình. Hình ảnh đó vừa bình dị, vừa cao quý, gợi lên niềm xúc động mãnh liệt về sự tận tụy mà mẹ dành trọn vẹn cho con cái.
Những khó khăn trong cuộc sống không làm mẹ nản lòng, mà trái lại, mẹ luôn giữ nụ cười, luôn sẻ chia, dù bản thân chịu nhiều thiếu thốn:
Bát cơm và nắng chan sương
Đói no con mẹ sẻ nhường cho nhau.
Đau đáu nỗi chia xa: Tiếng gọi từ cõi lòng
Bài thơ đi từ sự trân trọng những điều bình dị của mẹ sang nỗi đau đớn, xót xa khi mẹ ra đi. Sự mất mát ấy được diễn tả bằng những hình ảnh chân thực, đau lòng:
Con vừa vượt núi băng ngàn
Về nhà chỉ kịp đội tang ra đồng.
Khoảnh khắc cuối cùng, người con không kịp gặp lại mẹ. Đó là bi kịch mà nhiều người có thể thấu hiểu, bởi trong vòng xoay cuộc đời, đôi khi ta mải mê với những chuyến đi, để rồi không kịp nói lời yêu thương khi còn cơ hội.
Cảnh tiễn đưa mẹ về nơi an nghỉ cuối cùng không chỉ là một nghi lễ, mà còn là giây phút đau đớn nhất khi người con nhận ra rằng mẹ đã thực sự rời xa:
Mẹ nằm như lúc còn thơ
Mà con trước mẹ già nua thế này.
Câu thơ vừa như một lời trách móc số phận, vừa thể hiện nỗi xót xa khi mẹ mãi mãi là biểu tượng của sự bao dung, còn con dù lớn lên hay già đi vẫn chẳng thể bù đắp được những gì mẹ đã hy sinh.
Thông điệp sâu sắc: Hãy trở về trước khi quá muộn
Phần cuối bài thơ là tiếng gọi khắc khoải, như một lời nhắc nhở mạnh mẽ:
Trở về với mẹ ta thôi
Giữa bao la một khoảng trời đắng cay.
Sự trở về ở đây không chỉ là hành động thể chất, mà còn là sự thức tỉnh trong tâm hồn. Con người ta đôi khi mãi chạy theo những mộng tưởng, những khát khao đời thường mà quên đi điều quan trọng nhất – nơi bình yên nhất chính là bên mẹ.
Câu thơ cuối “Lỡ mai chết lại mồ côi dưới mồ” vang lên như một lời cảnh tỉnh đau đáu. Khi mẹ không còn, sự mồ côi ấy không chỉ nằm ở đời sống này, mà còn ám ảnh cả cõi vĩnh hằng.
Kết
“Trở về với mẹ ta thôi” là bài thơ vừa nhẹ nhàng, vừa sâu lắng, nhưng chứa đựng sức nặng lớn lao về tình mẫu tử. Thông qua hình ảnh người mẹ thầm lặng hy sinh, bài thơ không chỉ là lời tri ân dành cho mẹ mà còn là bài học quý giá về giá trị gia đình.
Đồng Đức Bốn đã chạm đến trái tim người đọc bằng thứ ngôn ngữ mộc mạc mà giàu cảm xúc, để lại dư âm khó quên về những điều thiêng liêng nhất trong cuộc đời. Lời thơ là nhắc nhở, là tiếng vọng từ tâm hồn, rằng hãy biết trân trọng mẹ, hãy trở về trước khi tất cả chỉ còn là kỷ niệm.
*
Giới thiệu về nhà thơ Đồng Đức Bốn
Đồng Đức Bốn (30/3/1948 – 14/2/2006) là một nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam, đặc biệt được biết đến với những đóng góp quan trọng trong thể loại thơ lục bát. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của ông để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người yêu thơ Việt Nam.
Tiểu sử
Đồng Đức Bốn sinh ra trong một gia đình lao động nghèo ở vùng ngoại ô Hải Phòng. Tuổi trẻ của ông gắn liền với những năm tháng khó khăn nhưng giàu nghị lực. Năm 1966, ông gia nhập lực lượng Thanh niên xung phong, sau đó làm việc trong ngành cơ khí với trình độ tay nghề cao (bậc 6 trên 7). Ông từng làm việc tại nhiều đơn vị khác nhau như Xí nghiệp Cơ giới của Tổng Công ty Xây dựng Bạch Đằng, Xí nghiệp Cơ khí 20-7, và Công ty Xuất nhập khẩu gia cầm Hải Phòng.
Cuối những năm 1980, Đồng Đức Bốn bắt đầu sáng tác thơ, một bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời ông. Ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam và đã dành phần lớn cuộc đời cống hiến cho thơ ca. Đồng Đức Bốn qua đời vào ngày 14/2/2006 tại nhà riêng ở Hải Phòng, hưởng dương 58 tuổi, sau một thời gian chống chọi với căn bệnh ung thư phổi.
Các tác phẩm nổi bật
Đồng Đức Bốn đã xuất bản nhiều tập thơ, ghi dấu ấn trong lòng người đọc bởi những hình ảnh sâu sắc và lối viết đậm chất lục bát. Một số tác phẩm tiêu biểu của ông bao gồm: Con ngựa trắng và rừng quả đắng (1992); Chăn trâu đốt lửa (1993); Trở về với mẹ ta thôi (2000); Cuối cùng vẫn còn dòng sông (2000); Chuông chùa kêu trong mưa (2002); Chim mỏ vàng và hoa cỏ độc (2006) – tập thơ cuối cùng của ông, đồ sộ với 1.108 trang.
Đánh giá về thơ Đồng Đức Bốn
Đồng Đức Bốn được xem là một nhà thơ có tài năng đặc biệt trong thể thơ lục bát. Thơ của ông nổi bật bởi cách ngắt nhịp độc đáo, cách dùng từ tinh tế và hình ảnh giàu cảm xúc, gợi mở những tầng sâu ý nghĩa. Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp từng nhận xét: “Trong khoảng 80 bài thơ của Đồng Đức Bốn, có khoảng 15 bài cực hay, tài tử vô địch, nhưng cũng có những bài chưa đạt.”
Dẫu vậy, những tác phẩm thành công của ông vẫn đủ để khẳng định vị thế của Đồng Đức Bốn trong nền thơ ca Việt Nam. Ông không chỉ mang lại hơi thở mới cho thể thơ truyền thống mà còn làm phong phú thêm nền văn học nước nhà.
Đồng Đức Bốn đã để lại một di sản thơ ca đặc sắc, là niềm tự hào của văn học Việt Nam và luôn được trân trọng bởi các thế hệ độc giả yêu thơ.
Viên Ngọc Quý.