Công chúa mười lăm
Vũ Hoàng Chương
Xa tặng YSA
Công Chúa Mười Lăm, nàng ở đâu?
Tìm nàng, thôi đã nát Âu châu
Ba Lê, Nhã Điển hay La Mã
Đâu cũng rêu in lệnh Miễn Chầu
Sân chầu lẻ cặp, những vần thơ
Giạt tới Sông Xanh lạnh ngắt bờ
Nét vẽ bay lên sườn Núi Trắng
Đâu rừng Thi Hoạ thuở ban sơ?
Ta mỏi đi hoang chín kiếp dài
Áo thêu rồng phượng rách chông gai
Nhớ năm xưa đến khu Rừng Cấm
Lục địa già nua bỗng đẹp trai
Kiếp thứ mười nên bước đã chồn
Ta gieo mình xuống thảm hoàng hôn
Ngủ chung giấc ngủ nàng Công Chúa
Mơ tuổi Mười Lăm biếc lại hồn
Nàng say sưa ngủ dưới trời sao
Chợt gọi tên ta giọng ngọt ngào:
“Anh nhích gần coi em vẽ bóng
Cho Thơ là một với Chiêm bao!”
Đê mê nhịp thở phút huyền ngưng
Đôi lứa chìm sâu đáy Tượng trưng
Ta nhủ: “Kìa em! Thơ mở lối
Còn sâu hơn cả trái tim Rừng!”
Đêm cũng đêm sâu nhịp với Tình
Nhưng đêm nào chẳng có bình minh
Ta hôn mười ngón tay vừa nở
Rồi bước đi hoang lại một mình
Tưởng đâu Rừng Cấm mãi thâm u
Nàng chẳng bao giờ mở sóng thu
Vì chẳng bao giờ ta cất tiếng
Gọi cho nàng tỉnh giấc ôn nhu
Năm năm trở bước một lần thôi
Hoàng-tử-không-nhà lại có ngôi
Giấc ngủ bên nàng, đêm tái tạo
Thơ ngâm truyền lửa đoá hoa môi
Ai hay một sớm tự non Sầu
Ngập gió bay ra lệnh Miễn Chầu
Cánh quạ nối hàng, đen khủng khiếp:
Tin nàng Công Chúa bỏ rừng sâu
Hôm trước, loài kim hiện ngọc ngà
Hoá trang làm một chiếc thiên nga
Xé mây Bạch Lĩnh… Ôi, Người Đẹp
Trút lại tàn y: Lục-địa-già!
Biển Bắc trời Âu hết đẹp trai
Nhoà tranh Siêu thực bóng trang đài
Thơ Trừu tượng cũng nhoà linh giác
Hồn chẳng đong đầy cặp mắt nai
Ngơ ngác rừng xưa đá chập chừng
Nơi nào Cửa Khuyết hỡi Mê cung?
Nàng đi mang cả hồn Thi Hoạ
Trời biển nằm trơ mấy mảnh khung
Ta biết nàng đi chẳng một về
Tìm ai Nhã Điển với Ba Lê?
Mấy phen La Mã ghì vân thạch
Tượng ngủ không bay gợn tóc thề?
Hỡi ơi, Công Chúa vượt trùng dương
Đất mới hoa dâng khắp ngả đường!
Sáng rực nơi nào đôi mắt biếc
Là nơi ấy mở một triều Vương
Hoà Lan Đan Mạch nắng vàng thu
Đôi bạn tình xưa phút mộng du
Hài gấm chỉ còn ta nhận dấu
Chừ, xuân ngăn ngắt tím sa mù
Ngẩng nhìn: Sông Bạc chẳng mưa tuôn
Châu Á khuya nay đọng khối buồn
Thăm thẳm mấy phương lòng rạn vỡ
Sao trời nhân lệ một thành muôn
Hoảng hốt ta ôm chặt bóng kiều
Đầy tay sương khói nặng bao nhiêu?
Phải chăng, kìa góc rừng Thi Hoạ
Vẳng tiếng chim xanh gọi Thiết Triều!
Hai mươi mốt tuổi nét xuân đằm
Nàng bỏ trời Âu tuyệt bóng tăm
Trải đúng hai mùa sen Tịnh Đế
Hồi loan, Công Chúa lại Mười Lăm?
Vào giấc cô miên, nàng hãy nghe:
Còn đây nửa vạt áo rồng che
Ta lên đường gấp cùng tia nắng
Cho kịp dâng nàng một xác ve
Nàng ôi, Nàng ôi, Ta mơ chăng?
Biển Đông biển Tây đều biển băng
Thôi rồi..! Ta không còn dám nghĩ
Tiếng ấy chim trời hay cá săng
Nhưng từ tăm cá bóng chim mờ
Kỷ niệm tung hoành nát gối mơ
Hoàng tử phiêu bồng thân nhẹ bấc
Vào săng càng thấy chỉ là Thơ
Một gửi xương da vách huyệt mềm
Thịt hao mòn, có Đất cho thêm
Cả thân, tâm, lại đầy phong độ
Ta sẽ hồi sinh đúng nửa đêm
Kiếp thứ mười hay mười một ư?
Cần chi! Rồng phượng áo chưa hư!
Sông Xanh núi Trắng rừng Thi Hoạ
Ta đến phen này kết thảo lư
Và ta nằm xuống thảm bình minh
Ngủ giấc sâu hơn biển Thái Bình
Công Chúa Mười Lăm về cạnh đó
Thay ngôi Chủ Khách… lại càng xinh
Nửa giấc nàng say hé cặp môi:
“Nhớ nhau hẳn cũng Thơ xong rồi!
Trước kia vẽ bóng, hình quên vẽ
Hơi tiếng đều quên… hoá lạc đôi
Tiếng trời hơi đất vẹn trường canh
Nay đã về, qua nhịp thở anh
Tóc bạch kim này, em chỉ đợi
Gieo hương cho mộng ngát duyên lành”
Ta uống từng âm hưởng dị kỳ
Nhưng lòng nghe gợn sóng hồ nghi:
“Em ơi! Rừng Cấm vui đoàn tụ
Sao chẳng hề vang khúc hoạ mi?”
Ngọc vỡ, san hô trút suối cười:
“Anh lầm! Đây sắc nắng hồng tươi
Quê hương anh chứ!… Và, em biết
Anh vẫn là anh kiếp thứ mười”
Lầm Sinh với Tử, Á thành Âu?…
Mới rõ tình Thơ ý Vẽ sâu
Hơn cả trái tim rừng Biểu tượng
Bên kia thế giới nghĩa gì đâu!
Công Chúa Mười Lăm chẳng bỏ ngôi
Ra đi là để tới đây thôi?
Cùng ta xum họp muôn ngàn kiếp
Chỗ hết Thời gian, đích phản hồi?
Ta ngập ngừng toan hỏi lại nàng
Ngây thơ đã tiếp suối cười vang
Hồi thanh có hoạ mi chen khúc
Và cả trời xưa cặp Phượng hoàng
Câu hỏi lưng chừng, lớp sóng Yêu
Xô nghiêng về tận bến Lam kiều
Nhạc đâu huyền thoại mưa vàng đổ?
Lệnh Miễn Chầu hay lệnh Thiết Triều?
Nàng uốn mình tơ dưới áo lông:
“Sông Xanh nào có khác sông Hồng!
Núi Đen núi Trắng nguyên là một
Kiếp thứ mười sao chưa cảm thông?”
Cảm Thông? Hai chữ nhớ thương đầy
Thi Hoạ duyên nào gốc ở đây?…
Ta vội mở trang Tình Sử cũ
Ôi, màu vẽ Tuyết, ý thơ Mây!
Tình Sử ai ghi? Chuyện xứ nào?
Mộng vàng đôi lứa sẽ ra sao?
Tay nâng trang sách, ta nhìn xuống
Nàng chợt như tia nắng rụng vào
Thể nhập rồi, trang sách trắng ngà
Ôi, nàng!… Sắc giấy hiện màu da
Đường cong tuyệt bút dần thu nhỏ
Nằm gọn trong muôn nét kỷ hà
Chẳng chút hồ nghi, ta xé đôi
Trang minh hoạ ấy để về ngôi…
Vì Thơ đến lúc nguyên hình Mộng
Uy lực Không gian đã hết rồi
Nét vẽ cuồng dâng tóc bạch kim
Giòng thơ đập loạn tiếng con tim
Nàng ôi, Tình một phương không đáy
Ta phải làm ra đáy để tìm…
Quên hết ngôn từ, chữ với câu
Vần phai theo bóng, nét theo màu
Dư âm Thi Hoạ riêng còn chút:
Công Chúa Mười Lăm, nàng ở đâu?
Sài Gòn, tháng Tư, 1967
*
Công Chúa Mười Lăm: Hành Trình Tìm Kiếm Hồn Thơ Và Tình Yêu Vượt Thời Gian
Bài thơ “Công Chúa Mười Lăm” của Vũ Hoàng Chương là một cuộc hành trình huyền thoại, đan xen giữa mộng mơ, tình yêu và thi ca, với những hình ảnh tinh tế và đầy ám ảnh. Được viết bằng ngôn ngữ thơ mộng, bài thơ không chỉ là một câu chuyện tình yêu kỳ ảo mà còn là cuộc tìm kiếm, một sự khát khao vô tận của người thi sĩ về vẻ đẹp tinh khiết và thuần khiết của tình yêu. Câu hỏi “Công Chúa Mười Lăm, nàng ở đâu?” vang lên không chỉ là một sự tìm kiếm vật chất, mà còn là một cuộc truy tìm hồn thiêng, tìm kiếm những giá trị tinh thần sâu xa mà thời gian và hiện thực không thể chạm tới.
Hình Ảnh Công Chúa Mười Lăm: Biểu Tượng Của Tình Yêu Hoàn Hảo
Công Chúa Mười Lăm không chỉ là một nhân vật trong câu chuyện, mà là biểu tượng của cái đẹp hoàn mỹ, của một tình yêu thuần khiết, không vướng bận bụi trần. Nàng là hình ảnh của sự thanh tao, mơ màng và quyến rũ, một sự kết hợp hoàn hảo giữa vẻ đẹp thiên nhiên và tâm hồn nghệ sĩ. Cái “Mười Lăm” trong tên gọi như thể hiện một tuổi đời tươi đẹp nhất, khi người con gái ở độ tuổi tròn đầy nhất, đẹp nhất và cũng trong sáng nhất. Nàng là hiện thân của “thơ” và “mộng”, của một thế giới vượt qua không gian và thời gian, nơi chỉ có nghệ thuật và cảm xúc.
Cuộc Tìm Kiếm Và Những Chuyến Phiêu Lưu Cảm Xúc
Từ những câu thơ mở đầu, hình ảnh “Công Chúa Mười Lăm” dường như đã lẩn khuất trong mọi góc của thế giới này, nhưng vẫn luôn tránh xa tầm mắt người tìm kiếm. Những địa danh như Ba Lê, La Mã, hay Nhã Điển không thể giúp người thi sĩ tìm ra nàng, mà chỉ càng làm cho cuộc tìm kiếm thêm phần tuyệt vọng. “Sân chầu lẻ cặp, những vần thơ giạt tới Sông Xanh lạnh ngắt bờ,” những câu thơ này mở ra một không gian đầy bí ẩn, mơ hồ, nơi mà thi sĩ chỉ có thể cảm nhận sự vắng bóng của nàng.
“Ta mỏi đi hoang chín kiếp dài
Áo thêu rồng phượng rách chông gai.”
Những dòng này thể hiện sự mệt mỏi, đớn đau trong hành trình tìm kiếm, khi mà người thi sĩ không ngừng rong ruổi qua không gian và thời gian, mặc dù luôn gặp phải những trở ngại. Hình ảnh “áo thêu rồng phượng” cũng mang lại cảm giác thiêng liêng và cao quý, tượng trưng cho những giá trị vĩnh cửu mà người thi sĩ không ngừng khao khát.
Thơ Và Mộng: Hai Đoạn Đường Song Song
Mối quan hệ giữa người thi sĩ và Công Chúa Mười Lăm không chỉ là mối quan hệ giữa người với người, mà là sự giao thoa giữa hai thế giới: thế giới của “thơ” và thế giới của “mộng”. Khi công chúa trong giấc ngủ gọi tên thi sĩ, nàng dường như mời gọi thi sĩ bước vào một thế giới huyền bí, nơi tình yêu và nghệ thuật hòa quyện với nhau. Bài thơ không ngừng nhắc đến những yếu tố huyền bí, mộng mơ, như là sự biểu tượng cho sự vĩnh cửu và khát vọng vượt lên trên mọi giới hạn của hiện thực.
“Ta nhủ: ‘Kìa em! Thơ mở lối
Còn sâu hơn cả trái tim Rừng!'”
Lời thơ như một câu mời gọi ngọt ngào, nhưng cũng đầy uẩn khúc, để đi sâu vào những ngõ ngách của tâm hồn và cảm xúc, nơi mà tình yêu không chỉ đơn thuần là cảm xúc mà là một nghệ thuật tinh tế, một sự sáng tạo không ngừng nghỉ.
Sự Giả Dối Của Thời Gian và Cái Chết Của Tình Yêu
Khi nàng Công Chúa Mười Lăm bỏ đi, để lại thế giới loài người, bài thơ như thể hiện sự tàn phai của một tình yêu lý tưởng, sự ra đi của cái đẹp vĩnh hằng. Tuy nhiên, sự ra đi ấy không phải là kết thúc, mà chỉ là một bước chuyển mình trong hành trình tìm kiếm của thi sĩ. Nàng không bao giờ trở lại, nhưng tình yêu và vẻ đẹp của nàng vẫn sống mãi trong từng vần thơ, trong những giấc mơ không bao giờ tỉnh.
“Nàng uốn mình tơ dưới áo lông:
‘Sông Xanh nào có khác sông Hồng!'”
Dẫu cho nàng đi qua bao nhiêu thế giới, bao nhiêu thời đại, thi sĩ vẫn mãi một lòng tìm kiếm, dẫu biết rằng mỗi lần tìm thấy, cũng chỉ là một sự khắc khoải, một sự chia lìa. Nàng là những mộng tưởng không thể nắm bắt, là hình ảnh hoài niệm của một tình yêu không bao giờ trọn vẹn.
Lời Kết: Cái Đẹp Vĩnh Cửu Và Mộng Thơ
Bài thơ “Công Chúa Mười Lăm” của Vũ Hoàng Chương không chỉ là một câu chuyện tình yêu mà còn là một hành trình vươn tới cái đẹp vĩnh hằng, sự tìm kiếm tình yêu trong một thế giới đầy bấp bênh. Công Chúa Mười Lăm chính là hình ảnh của một tình yêu hoàn hảo, vượt thời gian, không thể đạt tới, nhưng luôn là mục tiêu mà người thi sĩ không ngừng tìm kiếm.
Thông điệp mà nhà thơ gửi gắm chính là sự khát khao cái đẹp, cái tuyệt vời của tình yêu và nghệ thuật, dù biết rằng đó là một điều không thể nắm bắt, nhưng chính trong cuộc tìm kiếm không ngừng đó, con người mới tìm thấy ý nghĩa và giá trị của chính mình. Tình yêu ấy không phải là điểm đến, mà chính là hành trình, là những cảm xúc, những giấc mơ và những hy vọng mãi không tắt.
*
Vũ Hoàng Chương: Thi Bá của nền thi ca Việt Nam
Vũ Hoàng Chương (1915–1976), một nhà thơ lớn của Việt Nam, đã để lại dấu ấn sâu đậm trong văn học nước nhà qua những tác phẩm giàu cảm xúc và giá trị nghệ thuật. Sinh tại Nam Định, quê gốc ở làng Phù Ủng, tỉnh Hưng Yên, ông được mệnh danh là “Thi bá” Việt Nam, với phong cách thơ trang nhã, thấm đượm dư vị hoài cổ và đậm sắc thái phương Đông.
Hành trình cuộc đời và sự nghiệp
Từ nhỏ, Vũ Hoàng Chương đã được học chữ Hán tại nhà, sau đó học tiểu học tại Nam Định và trung học tại trường Albert Sarraut, Hà Nội. Năm 1937, ông đỗ Tú tài, nhưng hành trình học vấn của ông không dừng lại ở đó. Ông từng theo học Luật, rồi Cử nhân Toán, nhưng đều bỏ dở để đi làm và theo đuổi nghệ thuật.
Trong giai đoạn từ thập niên 1940, Vũ Hoàng Chương không ngừng sáng tác và hoạt động nghệ thuật. Ông cùng các văn nghệ sĩ nổi tiếng như Chu Ngọc, Nguyễn Bính thành lập Ban kịch Hà Nội, trình diễn các vở kịch thơ như Vân muội. Sau Cách mạng Tháng Tám, ông tiếp tục sáng tác và dạy học, đặc biệt gắn bó với Sài Gòn từ năm 1954.
Với tài năng vượt bậc, ông đã giành nhiều giải thưởng lớn, tiêu biểu là “Giải Văn học Nghệ thuật Toàn quốc” năm 1959 với tập thơ Hoa đăng. Ông cũng đại diện Việt Nam tham dự nhiều hội nghị thi ca quốc tế, góp phần đưa thơ ca Việt Nam đến gần hơn với thế giới.
Năm 1972, Vũ Hoàng Chương được đề cử Giải Nobel Văn học. Dù không đoạt giải, việc ông xuất hiện trong danh sách đề cử cũng là niềm tự hào lớn cho văn học Việt Nam.
Di sản văn học
Vũ Hoàng Chương để lại cho đời nhiều tác phẩm xuất sắc, gồm cả thơ và kịch thơ. Những tập thơ như Thơ say (1940), Mây (1943), Hoa đăng (1959), hay Lửa từ bi (1963) thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa nghệ thuật ngôn từ và cảm xúc mãnh liệt. Ông còn nổi tiếng với các vở kịch thơ như Vân muội, Trương Chi, góp phần đưa thể loại này phát triển tại Việt Nam.
Văn phong của Vũ Hoàng Chương được đánh giá là vừa sang trọng, vừa thấm đượm chất nhạc. Như nhận xét của Hoài Thanh và Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam: thơ ông không chỉ là sự say sưa của cá nhân, mà còn gói ghém nỗi niềm nhân sinh, với những bi kịch và ngao ngán của kiếp người.
Cuộc đời cuối cùng và dấu ấn vĩnh cửu
Cuộc đời Vũ Hoàng Chương trải qua nhiều biến cố. Sau năm 1975, ông bị bắt giam tại khám Chí Hòa và qua đời năm 1976, khép lại một hành trình đầy thăng trầm nhưng rực rỡ. Mộ phần ông hiện nằm tại nghĩa trang chùa Giác Minh, Gò Vấp, nơi lưu giữ ký ức về một thi bá lớn của Việt Nam.
Với những đóng góp vượt thời đại, Vũ Hoàng Chương không chỉ là nhà thơ, nhà văn hóa mà còn là biểu tượng cho tinh thần nghệ thuật tự do và sáng tạo của Việt Nam. Di sản của ông sẽ mãi mãi được nhớ đến như một phần không thể thiếu của nền văn học dân tộc.
Viên Ngọc Quý.