Cảm nhận về bài thơ: Thảo thử hịch – Nguyễn Đình Chiểu

Thảo thử hịch

Tượng mảng:
Lẽ trời sinh vật;
Vật ấy nhiều loài.

Lấy câu thuận tính làm lành;
Thấy chữ nghịch thường mà ngán.

Nhỏ là loài ong kiến, còn biết nghĩa quân thần;
Lớn là loài hổ lang, cũng niệm tình phụ tử.

Kìa như thước báo tai, cưu báo hỷ, đời cũng nhờ lành dữ đem tin;
Nọ như khuyển thủ dạ, kê tư thần, người còn cậy sớm khuya an giấc.

Lò tạo hoá nhúm nhen khắp vật, vật nào hay khuấy rối sự nhà;
Thợ hoá công đúc nắng nhiều loài, loài nào dám xoi hao mạch nước?

Nay có loài chuột:
Lông mọc xồm xàm;
Tục kêu xù, lắt.

Tính hay ăn vặt;
Lòng chẳng kiêng dè.

Chỗ ở ăn hang lỗ nhiều bề;
Đường qua lại đào ra hai ngách.

Nghe hơi động vội vàng chạy mất, nhát quá mẹ cheo;
Chờ đêm khuya sẽ lén lút nhau, liếng hơn cha khỉ.

Gọi danh hiệu: chuột xạ, chuột lắt, chuột xù, chuột cống, anh em dòng họ nhiều tên;
Tra quán chỉ: ở nhà, ở ruộng, ở rạch, ở ngòi, bậu bạn non sông lắm lối.

Lớn nhỏ răng đều bốn cái, ăn của người thầm tối biết bao nhiêu;
Vắn dài râu mọc hai chỉa, vắng mặt chủ lung lăng đà lắm lúc.

Vả sáu mươi giáp hoa đứng trước, lẽ thì thiện tính linh tâm;
Thì mười hai chí tuế ở đầu, cũng đáng cư nhân do nghĩa.

Cớ sao lại đem lòng quỷ quái?
Cớ sao còn làm thói gian tham?

Túi đông pha thường bữa tha gừng;
Ruộng nam quách ghe phen cắn lúa.

Nếp gạo của trời nuôi mạng, ăn phá rồi còn kéo xuống hang;
Nệm mền của chúng che thân, cắn nát lại tha vào lỗ.

Hoặc nằm ngửa cắn đuôi tha trứng vịt, gây nên thằng tớ chịu đòn oan;
Hoặc leo dây ngóng cổ gặm giò heo, để án con đòi mang tiếng khổ.

Vậy cũng gọi mình hay ngũ kỵ;
Vậy cũng khoe ngồi trước tam tài.

Chẳng xét mình vò nuốt dưới cầu;
Lại quen lần mò ben vách.

Sách Lỗ sử biên câu thực giác, vì miệng ai nên vua lỗi đạo thờ trời;
Thơ Quốc phong để chữ thực miêu, vì miệng ai cho nên dan xa lăng bỏ đất.

Ghe phen trách quần hư áo lủng, vì miệng ai cho nên chồng vợ giận nhau;
Nhiều chỗ than vách ngã tường xiêu, vì miệng ai cho nên cha con đứt bẩn.

Nền xã tắc là nơi báo bổ, can chi mi đào lỗ, đào hang;
Chốn miếu đường là chỗ thanh tán, cớ chi ngươi cắn màn, cắn sáo.

Kẻ trinh nữ ghét thằng cuồng bạo, cũng còn mang tiếng thử dâm;
Án Long đồ tra đứa gian tà, hãy còn mắc cái câu thử thủ.

Gối ngoã chú Nghiêu phu đà đến bể, khen cho quỷ quái chẳng chừa;
Gây phi long Linh kiết đã tưng bừng, sao hãy yêu tinh không gớm.

Nham độn mười hai ngôi tướng, cho hay thần hậu thật tướng gian;
Diễn cầm bốn bảy vì sao, phải biết hư nhật là sao dữ.

Sâu hiểm bấy tấm lòng nghiệt thử cục cứt ra cũng nhọn hai đầu;
Báu xót chi manh áo thử cầu, tấm da lột không đầy ba tấc.

Tuy là tướng hữu bì hữu chất;
Thật là loài vô lễ vô nghi.

Luận tội kia đã đáng phân thi;
Thứ tay nọ cũng vì kiêng vật.

Giận là giận trộm đồ bàn Phật, trốn án mà xưng vương;
Căm là căm cắn sách kẻ nho, đành lòng mà phá đạo.

Ngao ngán bấy cái thân chuột thúi, biết ngày nào ô thước phanh phui;
Nực cười thay cái bụng chuột tham, uống bao thuở Hoàng Hà ráo cạn.

Ví có ngàn giòng nước khảm, khôn bề rửa sạch tội đa dâm;
Dẫu cho muôn nén vàng đoài, cũng khó mua riêng hình bất xá.

Tội dường ấy đã nên ác quá;
Ta tới đây há dễ nhiêu dung.

An tiên phuông nấy gã rắn rồng;
Phù tập hậu sai chim bả cắc.

Sắm sửa binh sương giáp sắt;
Trau giồi ngựa gió xe trăng.

Giống trống sấm xuất binh;
Phất cờ lau tập trận.

Đuốc Điền Đan sắm sẵn, để phòng khi un đốt ngạch u vi;
Đèn Lý Bạch đái tuỳ đặng chờ thuở xét soi hang uất khúc.

Hàng hàng bố liệt thương đao;
Nhập sào huyệt phá hồ lỗ chuột.

Phải nghe ta dặn, sắm sửa đủ đồ:
Cuốc xuổng đào hang, phảng mai chận ngách.

Trả, trách, nồi niêu rửa sạch, thượng kỳ: phù địch khái chi tâm;
Tiêu, hành, sả, ớt muối đâm, thứ dĩ: tạ chúng nhân chi khẩu.

Chớ để con nào sơ lậu, phải ra tay lấp lỗ tam bành;
Đừng cho chúng nó sẩy ra, phải hết sức trừ đồ lục tặc.

Bốn phương đều ngợi chữ thăng bình;
Thiên hạ cũng vui câu án đổ.

*

“Thảo Thử Hịch” – Bản Hùng Ca Diệt Gian Trừ Bạo

Nguyễn Đình Chiểu – một nhà thơ yêu nước, một người thầy đạo đức và cũng là một chiến sĩ trên mặt trận văn chương. Với ngòi bút sắc bén, ông không chỉ ca ngợi những tấm gương trung nghĩa mà còn mạnh mẽ lên án kẻ gian tà. Trong bài thơ “Thảo Thử Hịch” (Bài hịch đánh chuột), ông mượn hình tượng loài chuột – loài vật chuyên ăn vụng, phá hoại – để ám chỉ bọn tham quan ô lại, những kẻ bán nước cầu vinh đang tàn hại đất nước.

Bức Tranh Nhân Gian Và Sự Suy Đồi Của Đạo Lý

Bài thơ mở đầu bằng những hình ảnh bao quát về vạn vật, về quy luật của tự nhiên. Nguyễn Đình Chiểu nhấn mạnh rằng:

“Nhỏ là loài ong kiến, còn biết nghĩa quân thần;
Lớn là loài hổ lang, cũng niệm tình phụ tử.”

Dù là loài vật nhỏ bé hay dũng mãnh, chúng đều có quy tắc sống, có đạo nghĩa. Ong kiến có tôn ti trật tự, hổ lang vẫn biết thương yêu con cái. Ấy vậy mà trong xã hội, lại có những kẻ chẳng bằng cầm thú – những kẻ tham lam, nham hiểm, chỉ biết phá hoại và trục lợi.

Rồi từ hình ảnh tự nhiên, tác giả chuyển sang phơi bày bản chất loài chuột:

“Nay có loài chuột:
Lông mọc xồm xàm;
Tục kêu xù, lắt.
Tính hay ăn vặt;
Lòng chẳng kiêng dè.”

Chuột là loài chuyên ăn vụng, phá phách, lén lút cắn xé mọi thứ mà không có chút lương tri. Chúng hành động một cách nham hiểm, ẩn nấp trong bóng tối, chỉ chờ cơ hội để cắn trộm, gây họa cho con người.

Chuột – Biểu Tượng Của Tham Quan, Kẻ Bán Nước

Không chỉ dừng lại ở hình ảnh của một loài vật, Nguyễn Đình Chiểu đã khéo léo mượn hình tượng chuột để ám chỉ những kẻ tham lam, gian trá, những kẻ hút máu mủ của nhân dân.

“Lớn nhỏ răng đều bốn cái, ăn của người thầm tối biết bao nhiêu;
Vắn dài râu mọc hai chỉa, vắng mặt chủ lung lăng đà lắm lúc.”

Những kẻ này không từ thủ đoạn để vơ vét của cải, phá hoại đất nước, gây nên biết bao khổ đau cho dân lành. Như loài chuột gặm nát lúa gạo, tha trứng vịt, cắn màn, cắn sách, bọn quan tham cũng tàn phá gia sản, bóc lột dân nghèo, bức hại người trung nghĩa.

Tác giả đau xót khi nhìn thấy nền đạo đức suy tàn vì những kẻ gian trá:

“Nhiều chỗ than vách ngã tường xiêu, vì miệng ai cho nên cha con đứt bẩn.”

Lòng tham của chúng không chỉ làm mất đi tài sản mà còn gây rạn nứt gia đình, xã hội loạn lạc, đất nước suy vong.

Lời Hiệu Triệu – Hãy Đứng Lên Diệt Trừ Cái Ác!

Sau khi vạch trần bộ mặt của kẻ gian, Nguyễn Đình Chiểu mạnh mẽ kêu gọi nhân dân hãy đứng lên tiêu diệt loài chuột, trừ sạch cái ác, bảo vệ chính nghĩa.

“An tiên phuông nấy gã rắn rồng;
Phù tập hậu sai chim bả cắc.
Sắm sửa binh sương giáp sắt;
Trau giồi ngựa gió xe trăng.”

Bằng những hình ảnh mang khí thế hào hùng, ông kêu gọi toàn dân sẵn sàng chiến đấu, dùng mọi công cụ để diệt trừ bọn gian tà. Từ “cuốc xẻng đào hang” đến “trống sấm xuất binh”, tất cả đều là lời hịch kêu gọi một cuộc khởi nghĩa.

Hình ảnh lấp lỗ tam bành, trừ đồ lục tặc không chỉ là hành động tiêu diệt chuột mà còn là ẩn dụ cho việc tiêu diệt bè lũ bán nước, đập tan xiềng xích của kẻ áp bức.

Thông Điệp Sâu Sắc Của Nguyễn Đình Chiểu

Bài thơ “Thảo Thử Hịch” không đơn thuần chỉ là một bài hịch tiêu diệt chuột mà ẩn chứa một thông điệp mạnh mẽ về chính nghĩa và đạo lý. Qua hình ảnh loài chuột, Nguyễn Đình Chiểu muốn nhắn nhủ: Những kẻ tham lam, bán nước hại dân không khác gì loài chuột nhơ bẩn. Xã hội muốn yên bình thì phải trừ diệt tận gốc những kẻ tàn ác, tham lam. Không thể dung túng cho kẻ gian, chính nghĩa cần được bảo vệ bằng hành động.

Với giọng thơ hùng hồn, kết hợp giữa chất trào phúng sâu cay và khí phách chính trực, bài thơ không chỉ thể hiện sự căm phẫn trước thời cuộc mà còn là một lời hiệu triệu đánh đuổi kẻ thù, bảo vệ nhân dân.

Dù đã trải qua hơn một thế kỷ, “Thảo Thử Hịch” vẫn giữ nguyên giá trị, như một lời nhắc nhở rằng cái ác, cái tham lam sẽ luôn tồn tại, và chúng ta – những người yêu nước – phải không ngừng đấu tranh để bảo vệ công lý, lẽ phải.

*

Nguyễn Đình Chiểu (1822–1888): Nhà thơ lớn, Danh nhân văn hóa thế giới

Nguyễn Đình Chiểu, tục gọi là cụ Đồ Chiểu, là một nhà thơ yêu nước tiêu biểu của Nam Bộ trong thế kỷ 19. Ông sinh ngày 1/7/1822 tại Gia Định (nay thuộc TP.HCM) trong một gia đình nhà nho. Cuộc đời ông trải qua nhiều biến cố, từ mất mẹ, mù lòa đến cảnh nước mất nhà tan, nhưng ông vẫn giữ vững đạo đức và lòng yêu nước.

Nguyễn Đình Chiểu là tác giả của nhiều tác phẩm nổi tiếng như Lục Vân Tiên, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, và Ngư tiều vấn đáp nho y diễn ca. Thơ văn của ông thể hiện quan niệm “văn dĩ tải đạo,” luôn hướng tới đề cao chính nghĩa, lòng yêu nước và phẩm chất đạo đức.

Với những đóng góp xuất sắc cho văn hóa và tinh thần dân tộc, ngày 24/11/2021, ông được UNESCO vinh danh là Danh nhân Văn hóa Thế giới. Hiện khu đền thờ và mộ Nguyễn Đình Chiểu tại Bến Tre là di tích quốc gia đặc biệt, trở thành điểm đến tri ân của nhiều thế hệ.

Viên Ngọc Quý.

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *