Điếu Phan Công Tòng (bài 1)
Thương ôi! người ngọc ở Bình Đông
Lớn nhỏ trong làng thảy mến trông.
Biết đạo khác bầy con mắt tục
Dạy dân nắm giữ tấm lòng công.
Đặng danh vừa rạng bề nhà cửa,
Vì nghĩa riêng đền nợ núi sông.
Một trận trải gan trời đất thấy,
So xưa nào thẹn tiếng anh hùng.
(Phan Ngọc Tòng hay Phan Tòng, Phan Công Tòng (1818-1868) quê làng An Bình Đông, tổng Bảo An, huyện Ba Tri (nay là xã An Đức, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre), là lãnh tụ cuộc khởi nghĩa kháng Pháp năm 1868 tại Ba Tri, Bến Tre. Tương truyền, ngay sau khi quân Pháp đánh chiếm Bến Tre năm Đinh Mão (1867), phong trào kháng Pháp liền nổi lên khắp nơi trong tỉnh. Khi ấy, Phan Ngọc Tòng chỉ là một thầy giáo làng (hương giáo) và đang mang tang mẹ, nhưng vẫn đứng ra tập hợp dân chúng đứng lên hưởng ứng và được Phan Tôn, Phan Liêm cử làm Đốc binh. Đầu năm Mậu Thìn (1868), quân Pháp mở cuộc hành quân về Ba Tri. Ngày, đội quân ấy đi ruồng bố, đến đêm, thì co cụm lại nơi ngôi miếu cũ trên một gò đất hoang vu, có tên là Giồng Gạch (nay thuộc xã An Hiệp).
Hiểu được việc đi lại của quân Pháp, đêm ngày 6 rạng ngày 7 tháng Giêng (30-1-1868), Phan Ngọc Tòng, khi ấy mới nhận chức có bảy tám ngày, đã tổ chức nghĩa quân tấn công vào cứ điểm trên của quân Pháp, với khẩu lệnh xung phong là tiếng hô “hè” (vì vậy trận này có tên là trận Giặc Hè) để uy hiếp tinh thần đối phương. Trong trận kịch chiến này, ông Tòng đã tử trận cùng với nhiều nghĩa quân. Thân xác Phan Ngọc Tòng sau đó được dân làng mang về chôn cất tại quê nhà, tức làng An Bình Đông.)
*
Phan Ngọc Tòng – Người Anh Hùng Hy Sinh Vì Nghĩa Lớn
Trong dòng chảy lịch sử, có những con người tuy xuất thân bình dị nhưng lại tỏa sáng bởi lòng yêu nước và khí phách hiên ngang. Phan Ngọc Tòng là một người như thế. Dù chỉ là một thầy giáo làng, ông vẫn dám cầm kiếm xông pha, chiến đấu đến hơi thở cuối cùng vì quê hương. Nguyễn Đình Chiểu, với tấm lòng thương dân và nỗi đau thời cuộc, đã viết bài thơ Điếu Phan Công Tòng để tưởng nhớ vị anh hùng đã vị quốc vong thân, đồng thời gửi gắm thông điệp về lòng trung nghĩa và tinh thần bất khuất.
Người ngọc của đất Bình Đông
Mở đầu bài thơ, Nguyễn Đình Chiểu đã thể hiện sự tiếc thương vô hạn trước sự ra đi của một người anh hùng:
“Thương ôi! người ngọc ở Bình Đông
Lớn nhỏ trong làng thảy mến trông.”
Phan Ngọc Tòng không chỉ là một người lãnh đạo nghĩa quân mà còn là một tấm gương sáng cho dân làng. Ông được ví như “người ngọc” – tượng trưng cho sự quý giá, thanh cao và trong sáng. Sự kính trọng và thương tiếc của nhân dân đối với ông không chỉ xuất phát từ lòng yêu nước mà còn từ đức độ, tài năng và tấm lòng vì dân.
Một cuộc đời sống vì đạo nghĩa
“Biết đạo khác bầy con mắt tục
Dạy dân nắm giữ tấm lòng công.”
Nguyễn Đình Chiểu nhấn mạnh rằng Phan Ngọc Tòng không giống như những kẻ tầm thường chạy theo danh lợi. Ông sống theo đạo nghĩa, biết phân biệt phải trái, luôn lấy chính nghĩa làm kim chỉ nam trong cuộc đời. Không chỉ vậy, ông còn tận tâm giáo dục dân chúng, hướng dẫn họ giữ gìn phẩm giá và lòng công bằng.
Là một thầy giáo, Phan Ngọc Tòng có thể sống cuộc đời bình lặng, nhưng khi quê hương lâm nguy, ông đã gác lại tang mẹ, từ bỏ sự an toàn cá nhân để bước vào con đường kháng chiến. Một người như thế, làm sao không được người đời kính trọng?
Hy sinh vì nước, danh thơm muôn đời
“Đặng danh vừa rạng bề nhà cửa,
Vì nghĩa riêng đền nợ núi sông.”
Danh tiếng của Phan Ngọc Tòng không chỉ là niềm tự hào của gia đình mà còn là ánh sáng soi rọi cả một vùng đất. Ông không chiến đấu vì danh lợi, mà vì nghĩa lớn – “đền nợ núi sông”. Đối với ông, sống là để bảo vệ quê hương, và chết cũng vì non sông gấm vóc.
Trong trận chiến tại Giồng Gạch, dù biết rõ rằng quân địch đông hơn và vũ khí mạnh hơn, ông vẫn quyết không lùi bước. Sự hy sinh ấy không chỉ là một hành động dũng cảm mà còn là minh chứng cho tinh thần bất khuất, quyết không để giặc ngoại xâm chà đạp lên mảnh đất thân yêu.
Khí phách anh hùng muôn đời bất diệt
“Một trận trải gan trời đất thấy,
So xưa nào thẹn tiếng anh hùng.”
Trận chiến Giồng Gạch tuy thất bại, nhưng không ai có thể phủ nhận lòng can trường của Phan Ngọc Tòng và nghĩa quân. Ông đã “trải gan” – dốc hết lòng mình để chiến đấu, để rồi sự hy sinh ấy được trời đất chứng giám. Nguyễn Đình Chiểu khẳng định rằng, so với những bậc anh hùng trong lịch sử, Phan Ngọc Tòng không hề kém cạnh.
Ông ra đi, nhưng danh thơm vẫn còn mãi. Sự hy sinh của ông không chỉ là niềm tiếc thương mà còn là ngọn đuốc soi sáng cho những thế hệ sau tiếp tục đứng lên bảo vệ Tổ quốc.
Thông điệp từ bài thơ – lòng trung nghĩa và tinh thần quật cường
Nguyễn Đình Chiểu không chỉ khóc thương một người anh hùng mà còn muốn gửi gắm một thông điệp mạnh mẽ: lòng trung nghĩa, tình yêu nước và sự hy sinh quên mình là những giá trị bất diệt.
Cuộc đời Phan Ngọc Tòng là minh chứng cho tinh thần “giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh”, dù là một thầy giáo, ông vẫn cầm vũ khí đứng lên. Nguyễn Đình Chiểu nhắc nhở chúng ta rằng, trong thời kỳ đất nước bị xâm lược, không ai có quyền đứng ngoài. Chỉ có đoàn kết, dũng cảm và sẵn sàng hy sinh, dân tộc mới có thể giữ vững được độc lập, tự do.
Bài thơ Điếu Phan Công Tòng không chỉ là một bài văn tế, mà còn là một khúc tráng ca về lòng yêu nước. Đọc những vần thơ ấy, ta không chỉ thấy nỗi tiếc thương, mà còn cảm nhận được lòng tự hào, niềm kính phục và tinh thần sục sôi trước một con người đã sống và chết cho nghĩa lớn.
*
Nguyễn Đình Chiểu (1822–1888): Nhà thơ lớn, Danh nhân văn hóa thế giới
Nguyễn Đình Chiểu, tục gọi là cụ Đồ Chiểu, là một nhà thơ yêu nước tiêu biểu của Nam Bộ trong thế kỷ 19. Ông sinh ngày 1/7/1822 tại Gia Định (nay thuộc TP.HCM) trong một gia đình nhà nho. Cuộc đời ông trải qua nhiều biến cố, từ mất mẹ, mù lòa đến cảnh nước mất nhà tan, nhưng ông vẫn giữ vững đạo đức và lòng yêu nước.
Nguyễn Đình Chiểu là tác giả của nhiều tác phẩm nổi tiếng như Lục Vân Tiên, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, và Ngư tiều vấn đáp nho y diễn ca. Thơ văn của ông thể hiện quan niệm “văn dĩ tải đạo,” luôn hướng tới đề cao chính nghĩa, lòng yêu nước và phẩm chất đạo đức.
Với những đóng góp xuất sắc cho văn hóa và tinh thần dân tộc, ngày 24/11/2021, ông được UNESCO vinh danh là Danh nhân Văn hóa Thế giới. Hiện khu đền thờ và mộ Nguyễn Đình Chiểu tại Bến Tre là di tích quốc gia đặc biệt, trở thành điểm đến tri ân của nhiều thế hệ.
Viên Ngọc Quý.