Cảm nhận về bài thơ: Khóc Tản Đà – Trần Huyền Trân

Khóc Tản Đà

Đêm kia sao rụng trên trời,
Cõi trần lạnh lẽo mất người bạn thơ.
Nước non này mảnh dư đồ,
Mà hồn non nước bây giờ tìm đâu.
Lấy gì trời đổi cho nhau,
Người sương gió nhuộm mái đầu bấy nay?

  *
Bao lâu tỉnh tỉnh say say,
Say say tỉnh tỉnh lần này mà thôi!
Chiều nay tám chín phương trời,
Muôn ngàn người có một người đi qua.
Dở dang này những ngày xưa:
“Người non nước hẹn thế cờ nước non.
Khối tình lớn, khối tình con,
Khối tình bóp bẹp vo tròn lại nguyên.”
Lòng thơ lấy rượu làm duyên,
Hồn thơ xuôi ngược con thuyền “An Nam”.
Não nùng chớp bể mưa ngàn,
Thuyền nan hờn sóng thuyền nan trở về.
Mai mai, mốt mốt, kia kia,
Cảnh rầu rỉ cảnh lòng tê tái lòng!
Hôm nao vút cánh chim hồng,
Mình không thẹn bóng, bóng không thẹn mình.
Giờ sao thui thủi gia đình,
Rượu cay càng gởi bất bình càng cay.
Mịt mù Nam, Bắc, Đông, Tây,
Đã đầy mộng lớn, đã đầy mộng con!
Còn gì là tấm lòng son!
Thân tàn một kiếp, chí tròn bốn phương.
Rồi… gió sương trả gió sương,
Nét thơ xoá “sổ đoạn trường” ra đi!


9/6/1939

*

“Khóc Tản Đà” – Một Lời Tiễn Biệt Đầy Xót Xa

Tản Đà – kẻ sĩ cuối cùng của thời Nho phong, người lữ khách cô đơn giữa đôi bờ cũ mới, một tâm hồn chất chứa mộng lớn nhưng chịu kiếp sống long đong. Khi ông ra đi vào một ngày tháng Sáu năm 1939, Trần Huyền Trân đã để lại bài thơ “Khóc Tản Đà”, như một lời tiễn biệt đầy thương cảm dành cho người bạn thơ tài hoa nhưng bạc mệnh.

Từng câu, từng chữ trong bài thơ như những giọt lệ rơi xuống một thời đại đã qua, như những tiếng thở dài của một kẻ tri âm, tiếc cho một vì sao vừa tắt trên bầu trời văn chương.

Người đi rồi, trần thế lạnh lẽo hơn

Đêm kia sao rụng trên trời,
Cõi trần lạnh lẽo mất người bạn thơ.

Nhà thơ ví sự ra đi của Tản Đà như một vì sao rụng, một vầng sáng lụi tàn giữa bầu trời văn học. Trong cái đêm định mệnh ấy, dường như cả trời đất cũng trở nên hiu quạnh, bởi nhân gian vừa mất đi một tâm hồn thơ phiêu bạt, một con người mang nặng nỗi đau thời cuộc nhưng vẫn ôm giấc mộng vẫy vùng.

Nước non này mảnh dư đồ,
Mà hồn non nước bây giờ tìm đâu?

Câu thơ vang lên như một tiếng thở dài chua xót. Đất nước vẫn đó, nhưng hồn dân tộc, hồn thơ liệu có còn? Tản Đà đã từng mang trong mình mộng lớn – một giấc mộng cứu rỗi cả thời đại bằng chính ngòi bút của mình. Nhưng rồi, giữa những đổi thay dữ dội, giấc mơ ấy tan vào hư vô, chỉ còn lại một mảnh dư đồ cô đơn và lạnh lẽo.

Say tỉnh một kiếp người

Bao lâu tỉnh tỉnh say say,
Say say tỉnh tỉnh lần này mà thôi!

Cả đời Tản Đà, men rượu và men thơ đan xen, say tỉnh lẫn lộn. Ông say vì cuộc đời chật chội, ông say để trốn tránh những ngang trái của thời cuộc, và ông say vì những giấc mộng không thành. Nhưng lần này, không còn tỉnh lại nữa, không còn những cơn say để quên đời hay để sống trọn với thơ ca.

Dở dang này những ngày xưa:
“Người non nước hẹn thế cờ nước non.
Khối tình lớn, khối tình con,
Khối tình bóp bẹp vo tròn lại nguyên.”

Câu thơ nhắc đến những dở dang, những giấc mơ nửa vời của Tản Đà. Ông từng mơ một cuộc canh tân, từng mơ viết nên những áng văn làm xoay chuyển thời cuộc, nhưng rồi rốt cuộc, cả “khối tình lớn” và “khối tình con” cũng đều lụi tàn theo năm tháng.

Tản Đà từng viết:
“Văn chương hạ giới rẻ như bèo”
Có lẽ ông đau lòng vì biết rằng, trong một thời đại đổi thay, giá trị của văn chương không còn được trọng vọng. Ông là kẻ sĩ của quá khứ, nhưng cũng không hoàn toàn thuộc về tương lai, thành ra lẻ loi giữa đôi bờ của hai thời đại.

Một kiếp tài hoa – Một đời bạc mệnh

Hôm nao vút cánh chim hồng,
Mình không thẹn bóng, bóng không thẹn mình.

Dù cuộc đời bạc bẽo, dù lý tưởng chưa thành, nhưng Tản Đà vẫn giữ được tấm lòng thanh sạch, vẫn là một người mang trong mình khí phách của bậc trượng phu. Ông từng vẫy vùng, từng khát khao đem văn chương mà vẽ nên hồn dân tộc, dù cuối cùng chỉ còn lại một con thuyền nan lẻ loi trên sóng lớn.

Rồi… gió sương trả gió sương,
Nét thơ xoá “sổ đoạn trường” ra đi!

Khi người đã ra đi, mọi đau thương, mọi trăn trở cũng tan theo mây gió. Bút mực có thể đã khô cạn, nhưng những áng thơ Tản Đà để lại vẫn còn mãi, như những dấu chân trên cát, như một nỗi niềm không bao giờ nguôi trong lòng những kẻ tri âm.

Lời tiễn biệt một tâm hồn lãng tử

Bài thơ “Khóc Tản Đà” không chỉ là lời tiếc thương dành cho một con người, mà còn là nỗi xót xa cho cả một thời đại, một thế hệ nhà Nho lỡ bước giữa những đổi thay. Trần Huyền Trân, với tư cách một người bạn thơ, đã đặt bút viết những dòng tiễn biệt đầy cảm xúc, không chỉ khóc thương cho Tản Đà, mà còn khóc cho cả những giấc mơ lớn bị thời đại vùi lấp.

Tản Đà ra đi, nhưng hồn thơ ông vẫn còn mãi, vẫn là một ngọn lửa nhỏ giữa đêm tối, le lói nhưng chưa từng tắt hẳn. Và có lẽ, ở một nơi xa, người lữ khách ấy vẫn còn đang nâng chén rượu, say giữa cõi mộng – một cõi mộng không còn nỗi buồn của trần thế.

*

Trần Huyền Trân – Nhà thơ, nhà hoạt động sân khấu tài hoa

Trần Huyền Trân (1913-1989), tên thật là Trần Đình Kim, là một nhà thơ và nhà hoạt động sân khấu xuất sắc của Việt Nam. Ông không chỉ ghi dấu ấn sâu đậm trong phong trào Thơ mới với những vần thơ đầy trăn trở và suy tư, mà còn có những đóng góp quan trọng trong việc bảo tồn và phát triển nghệ thuật sân khấu truyền thống, đặc biệt là chèo.

Bắt đầu sáng tác từ năm 20 tuổi, thơ ông mang màu sắc tự sự, hoài niệm, phản ánh những nỗi niềm lữ khách cô độc, trăn trở về thân phận con người và thời cuộc. Một số tác phẩm tiêu biểu có thể kể đến như Mười năm, Độc hành ca, Uống rượu với Tản Đà, Mưa đêm lều vó

Sau Cách mạng tháng Tám, ông tham gia kháng chiến, hoạt động trong lĩnh vực sân khấu và dành trọn tâm huyết để gìn giữ nghệ thuật chèo. Ông là một trong những người sáng lập nhóm chèo Cổ Phong, sưu tầm và chỉnh lý nhiều tích chèo cổ nổi tiếng như Xúy Vân giả dại, Quan Âm Thị Kính…, góp phần gìn giữ tinh hoa sân khấu dân gian Việt Nam.

Di sản nghệ thuật của Trần Huyền Trân vô cùng phong phú, trải dài trên nhiều thể loại: thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch, chèo. Một số tác phẩm nổi bật gồm: Thơ: Mười năm, Độc hành ca, Mưa đêm lều vóTiểu thuyết, truyện ngắn: Tấm lòng người kỹ nữ (1941), Người ngàn thu cũ (1942), Sau ánh sáng (1940)Kịch, chèo: Lên đường, Tú Uyên Giáng Kiều, Lý Thường Kiệt, Hoàng Văn Thụ, Lửa Hà Nội

Năm 2007, ông được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật, ghi nhận những cống hiến to lớn đối với văn hóa Việt Nam.

Cuộc đời của Trần Huyền Trân là sự giao thoa giữa thi ca và sân khấu, giữa trữ tình và chính luận, để lại một di sản quý giá cho hậu thế.

Viên Ngọc Quý.

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *