Mưa đêm lều vó
Mưa lũa ao bèo mưa trắng đêm
Cây bờ ngơ ngác nước đang lên
Lều tôi kiến đã dời lên mái
Bà lão chài lo chửa có thuyền.
Vó nghèo được nước đã lê thê
Đàn cá giang hồ nhảy nhót đi
Cả cụm bèo xanh nằm cạn mãi
Cũng như cất cánh gọi không về.
Tôi ở lều gianh Cống Trắng này
Chạnh lòng cá nhảy với chim bay
Đêm sầu kẽo kẹt ngư bà thức
Giăng phải hồn tôi một lưới đầy.
Khâm Thiên 1938
*
Mưa Đêm Lều Vó – Tiếng Thở Dài Của Kiếp Người
Đêm mưa, từng hạt nước đổ xuống lều gianh, từng cơn gió xô dạt cụm bèo trôi dạt. Trong màn mưa ấy, có một bà lão chài thấp thỏm lo âu, một chàng thi sĩ lặng lẽ suy tư, một kiếp người đơn sơ mà chất chứa bao nỗi niềm. Bài thơ “Mưa đêm lều vó” của Trần Huyền Trân không chỉ đơn thuần là bức tranh của một đêm mưa trên sông nước, mà còn là tiếng lòng trăn trở về cuộc đời, về con người, về những kiếp sống bấp bênh giữa dòng đời vô định.
1. Mưa trắng đêm – sự bé nhỏ của con người trước thiên nhiên
Mưa lũa ao bèo mưa trắng đêm
Cây bờ ngơ ngác nước đang lên
Hình ảnh cơn mưa xối xả phủ trắng cả mặt ao, làm nước dâng cao, làm cây cối bên bờ trở nên bàng hoàng – tất cả như vẽ nên một không gian hoang mang, bất định.
Giữa màn mưa ấy, con người dường như nhỏ bé hơn bao giờ hết.
Lều tôi kiến đã dời lên mái
Bà lão chài lo chửa có thuyền.
Kiến phải bò lên mái tránh nước, còn bà lão chài thì thấp thỏm lo âu, bởi cuộc sống mưu sinh của bà phụ thuộc vào con nước, vào chiếc thuyền nghèo. Chỉ hai câu thơ mà cả một kiếp người cơ cực, trôi nổi theo dòng nước hiện lên thật rõ ràng.
Mưa không chỉ là mưa của thiên nhiên, mà còn là mưa của cuộc đời, mưa phủ xuống những phận người bấp bênh, chật vật mưu sinh.
2. Đời cá, đời người – kiếp nổi trôi
Vó nghèo được nước đã lê thê
Đàn cá giang hồ nhảy nhót đi
Mưa lớn, nước dâng, vó chài ngập nước, cá tung tăng bơi lội. Nhưng cá nhảy nhót liệu có phải vui sướng, hay chỉ là phút giây vùng vẫy trước khi rơi vào lưới?
Những câu thơ của Trần Huyền Trân như ẩn chứa một triết lý sâu sắc: đời cá cũng như đời người, tưởng như tự do nhưng thật ra luôn bị vây hãm bởi những “tấm lưới” vô hình của số phận.
Cả cụm bèo xanh nằm cạn mãi
Cũng như cất cánh gọi không về.
Bèo trôi, nhưng cũng có lúc mắc cạn, như một số phận lưu lạc không tìm được đường về. Câu thơ man mác một nỗi buồn viễn xứ, nỗi xót xa cho những phận đời trôi nổi, muốn trở về nhưng chẳng thể nào quay lại nơi mình thuộc về.
3. Lều gianh trong mưa – chốn dung thân của một tâm hồn ưu tư
Tôi ở lều gianh Cống Trắng này
Chạnh lòng cá nhảy với chim bay
Nhà thơ đứng đó, giữa một lều gianh nghèo bên sông, giữa một cơn mưa trắng trời, giữa những sinh linh nhỏ bé đang vùng vẫy, và rồi chạnh lòng.
Cá nhảy mà lòng người quặn thắt.
Chim bay mà lòng người lại thấy trống trải, cô đơn.
Dường như, trong phút giây ấy, nhà thơ cảm nhận sâu sắc hơn bao giờ hết cái hữu hạn của đời người, cái mong manh của kiếp sống.
Đêm sầu kẽo kẹt ngư bà thức
Giăng phải hồn tôi một lưới đầy.
Bà lão chài vẫn thức, kéo vó trong đêm mưa.
Tiếng kẽo kẹt của mái lều, tiếng mưa rơi lộp độp, tiếng vó quăng xuống nước như hòa vào tiếng thở dài của một kiếp người.
Nhưng lưới không chỉ giăng bắt cá – mà còn giăng cả nỗi niềm của nhà thơ. Một lưới đầy không chỉ là cá, mà còn là suy tư, là trăn trở, là những câu hỏi về số phận.
4. Mưa đêm – khi lòng người cũng dậy sóng
Bài thơ “Mưa đêm lều vó” là một bức tranh mùa nước nổi, nhưng cũng là bức tranh của kiếp người nổi trôi.
- Bà lão chài sống nhờ nước, nhưng cũng nơm nớp lo âu vì nước.
- Cá tưởng chừng tự do, nhưng rồi cũng sa vào vó lưới.
- Nhà thơ đứng trong mưa, nhưng lòng còn ướt lạnh hơn cả cơn mưa bên ngoài.
Tất cả tạo nên một nỗi buồn âm ỉ mà sâu lắng – một nỗi buồn của những kiếp người nghèo khổ, bấp bênh, của những suy tư về tự do và số phận.
Mưa vẫn rơi.
Lều vó vẫn chao nghiêng trong gió.
Và lòng người vẫn còn đó những khoảng trống không tên.
*
Trần Huyền Trân – Nhà thơ, nhà hoạt động sân khấu tài hoa
Trần Huyền Trân (1913-1989), tên thật là Trần Đình Kim, là một nhà thơ và nhà hoạt động sân khấu xuất sắc của Việt Nam. Ông không chỉ ghi dấu ấn sâu đậm trong phong trào Thơ mới với những vần thơ đầy trăn trở và suy tư, mà còn có những đóng góp quan trọng trong việc bảo tồn và phát triển nghệ thuật sân khấu truyền thống, đặc biệt là chèo.
Bắt đầu sáng tác từ năm 20 tuổi, thơ ông mang màu sắc tự sự, hoài niệm, phản ánh những nỗi niềm lữ khách cô độc, trăn trở về thân phận con người và thời cuộc. Một số tác phẩm tiêu biểu có thể kể đến như Mười năm, Độc hành ca, Uống rượu với Tản Đà, Mưa đêm lều vó…
Sau Cách mạng tháng Tám, ông tham gia kháng chiến, hoạt động trong lĩnh vực sân khấu và dành trọn tâm huyết để gìn giữ nghệ thuật chèo. Ông là một trong những người sáng lập nhóm chèo Cổ Phong, sưu tầm và chỉnh lý nhiều tích chèo cổ nổi tiếng như Xúy Vân giả dại, Quan Âm Thị Kính…, góp phần gìn giữ tinh hoa sân khấu dân gian Việt Nam.
Di sản nghệ thuật của Trần Huyền Trân vô cùng phong phú, trải dài trên nhiều thể loại: thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch, chèo. Một số tác phẩm nổi bật gồm: Thơ: Mười năm, Độc hành ca, Mưa đêm lều vó… Tiểu thuyết, truyện ngắn: Tấm lòng người kỹ nữ (1941), Người ngàn thu cũ (1942), Sau ánh sáng (1940) … Kịch, chèo: Lên đường, Tú Uyên Giáng Kiều, Lý Thường Kiệt, Hoàng Văn Thụ, Lửa Hà Nội…
Năm 2007, ông được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật, ghi nhận những cống hiến to lớn đối với văn hóa Việt Nam.
Cuộc đời của Trần Huyền Trân là sự giao thoa giữa thi ca và sân khấu, giữa trữ tình và chính luận, để lại một di sản quý giá cho hậu thế.
Viên Ngọc Quý.