Độc hành ca
Ớ kìa! Thiên hạ đang say
Ớ nghìn tay nắm nghìn tay đang cười…
Nhớ ngươi, nhạt thếch rượu đời
Tay vo chỏm tóc, ta ngồi ta ca.
Tình tang lỗi nhịp mình ta
Thương về đầu bạc, xót ra má hồng
Đèn chong, ai vợ không chồng
Võng đưa ai mẹ bế bồng không con
Nằm đây thép rỉ son mòn
Cái đi mất mát, cái còn lần khân
Cúi đầu bóng rét vương chân
Ngẩng lên đã đụng trời xuân trên cành
Không vui sâu cỏ không đành
Mà cười nghe chửa ngọt lành trái mơ
Đã toan ném bút, vùi thơ
Thõng không tay áo sợ dơ dáng đời
Trót thừa ừ ngược ừ xuôi
Chút thân tâm sự ra người hát ngao
Giao tình tợp chén chiêm bao
Ngựa Hồ thôi gió bấc nào đạp chân
Đây người áo đỏ tầm xuân
Đấy đi tang trắng mấy lần trùng quan
Không dưng rét cả dây đàn
Này cung dâng áo ngự hàn là đây
Đêm nay cùng đổ bụi giầy
Miệng cười ha hả, thơ mày rượu tao
Say đời nhắm lẫn chiêm bao
Thơ ra miệng dại, sầu vào mắt điên
Đầu bồng khí núi đang lên
Sá gì bóng tối đắp trên thân còm
Gặp thời xô xát nước non
Ta trôi, ngươi chảy, lòng còn ngó theo
Đưa nhau qua bữa cơm nghèo
Đứa sầu gào rượu, đứa nheo mắt cười
Vung tay như vạch ngang trời
Bảo rằng đâu nữa cái thời ngất ngư
Chén mồi dù hắt ưu tư
Sao cho ráo được gió mưa lội lần
cõi ngoài trăm họ muôn dân
Sống trong rau cỏ vẫn thầm khóc than
Sao ta lì mãi mật gan
Đời ai mắt sáng hơn vàng mà mong
Chẳng nghe đỏ khé sông Hồng
Sóng ngàn xưa vẫn động lòng ngàn sau
Chẳng nhìn bóng đá thâu thâu
Non Lam như kẻ gục đầu còn thương
Chẳng hoài thóc giống vất vương
Giếng khô lấp mạch, cây vườn rụi hoa
Trách nào trái rụng hương sa
Cốt muôn trẻ đắp muôn già càng cao
Mồ hôi làm suối chiêm bao
Nguồn sinh vô lượng đổ vào vô biên
Lũ mình rấp hận thành điên
Cái câm thuở ấy cười lên thuở này
Thế rồi thí bỏ rủi may
Đứa giam cõi bụi, đứa đày rừng sâu
Vai cày chẳng kẻo làm trâu
Giong xe chẳng kẻo tóc râu làm bờm
Nẻo về chật chội áo cơm
Dặm di lại động từng cơn lá rừng
Lòng ta không sóng không đừng
Thơ vang lại vướng mấy tầng cửa quan
Ngẩng thì núi quấn mây tang
Kìa đông lửa cháy, kìa nam khói mù
Tóc xanh như cỏ trên mồ
Đời hoang chôn cả xuân thu một thời
Nghêu ngao cho sập bóng ngày
Khề khà cho ráo hận đầy từng hơi
Chiều nay nhắc chén lên môi
Không dưng tưởng nhấp máu người tanh tanh
Khóc nhau, ném chén tan tành
Nghe vang vỡ cái bất bình thành thơ…
Cố nhân! ới hỡi người xưa
Dọn đi tâm sự
Đẩy mưa về rừng!
Khâm Thiên 1940
*
“Độc Hành Ca” – Khúc Hát Của Kẻ Lữ Hành Đơn Độc
Bài thơ “Độc hành ca” của Trần Huyền Trân là một khúc ca của kẻ lữ hành cô độc giữa dòng đời. Nó vừa là tiếng thở dài của một tâm hồn đau đáu với thế cuộc, vừa là sự phẫn uất của một người tỉnh táo giữa thiên hạ đang say.
Bài thơ mở ra với cảnh tượng “nghìn tay nắm nghìn tay đang cười”, thế gian vẫn say sưa trong vòng quay của nó, chỉ riêng tác giả là một kẻ ngồi lặng, nhạt thếch chén rượu đời, hát lên khúc độc hành. Đằng sau những câu thơ phóng túng, cuồng nhiệt, là nỗi niềm hoang mang, day dứt về thân phận con người và vận mệnh đất nước.
1. Độc hành – Khi một mình đối diện với thế gian
Ớ kìa! Thiên hạ đang say
Ớ nghìn tay nắm nghìn tay đang cười…
Thế gian vẫn cuộn trôi, con người vẫn đắm chìm trong men say của cuộc sống. Nhưng có một kẻ lại đứng bên lề, không hòa vào dòng chảy ấy, mà chỉ lặng lẽ quan sát và cất lên tiếng ca.
Nhớ ngươi, nhạt thếch rượu đời
Tay vo chỏm tóc, ta ngồi ta ca.
Rượu đời đối với kẻ tỉnh táo chỉ còn lại vị nhạt nhẽo. Càng uống, càng không say, chỉ thấy lòng quặn thắt trước những mất mát, xót xa.
2. Giữa cái mất và cái còn – Khi nhân gian là bể dâu
Thương về đầu bạc, xót ra má hồng
Đèn chong, ai vợ không chồng
Võng đưa ai mẹ bế bồng không con
Câu thơ như một lời cảm thán về những mảnh đời dang dở. Có những đứa trẻ không còn mẹ, có những người phụ nữ lặng lẽ nuôi con trong cảnh góa bụa, có những kẻ già nua chờ đợi trong cô đơn.
Nằm đây thép rỉ son mòn
Cái đi mất mát, cái còn lần khân
Tất cả những gì từng rực rỡ, từng sáng chói giờ cũng chỉ còn lại vết rỉ sét của thời gian. Cái mất thì đã mất, cái còn thì chẳng biết có giữ nổi hay không.
3. Hành trình của một tâm hồn lạc lối
Đã toan ném bút, vùi thơ
Thõng không tay áo sợ dơ dáng đời
Có lúc, tác giả muốn buông bỏ tất cả, muốn ném đi ngòi bút, quên đi những câu thơ, bởi có lẽ, làm thơ giữa thời loạn chỉ càng thêm đau đớn.
Trót thừa ừ ngược ừ xuôi
Chút thân tâm sự ra người hát ngao
Nhưng rồi, vẫn không thể im lặng. Dẫu có ngược xuôi, có trôi dạt, thì lòng vẫn cứ muốn cất lên khúc hát của riêng mình.
4. Nỗi đau thế sự – Khi bất công thành thơ
Gặp thời xô xát nước non
Ta trôi, ngươi chảy, lòng còn ngó theo
Thời thế biến động, người người như những dòng nước cuốn đi không phương hướng. Nhưng dù bị cuốn trôi, vẫn còn đó một tấm lòng ngoái lại, dõi theo vận mệnh nước nhà.
cõi ngoài trăm họ muôn dân
Sống trong rau cỏ vẫn thầm khóc than
Dân chúng vẫn sống, nhưng là một cuộc sống âm thầm trong đói khổ, trong những giọt nước mắt không ai thấy.
Sao ta lì mãi mật gan
Đời ai mắt sáng hơn vàng mà mong
Tác giả đau đáu tự hỏi, phải chăng mình đã quá chai lì trước những bất công? Hay đơn giản, trong thế gian này, chẳng có ai có đôi mắt đủ sáng để nhìn thấu tất cả?
5. Khúc ca cuối – Khi giận dữ hóa thành thơ
Khóc nhau, ném chén tan tành
Nghe vang vỡ cái bất bình thành thơ…
Rượu không thể làm say, nhưng có thể làm bùng lên những nỗi phẫn uất. Chén rượu bị ném vỡ tan, cũng như cơn giận dữ chẳng thể kìm nén được nữa. Và từ trong những mảnh vỡ ấy, thơ cất lên – như một tiếng kêu uất nghẹn giữa thời cuộc đảo điên.
Cố nhân! ới hỡi người xưa
Dọn đi tâm sự
Đẩy mưa về rừng!
Câu kết như một lời gọi về quá khứ, một nỗi mong mỏi xóa sạch những nỗi niềm đau đớn, như muốn đẩy tất cả những muộn phiền, những giông bão vào rừng sâu, để lòng nhẹ bớt.
6. Lời kết – Khi kẻ độc hành vẫn tiếp tục bước đi
“Độc hành ca” là bài thơ của một kẻ lữ hành lạc lõng giữa thế gian, của một tâm hồn quá tỉnh táo trong một thế giới đang say. Nó mang nỗi đau của một con người thấy rõ những bất công nhưng không thể thay đổi, của một kẻ đứng bên lề nhìn đời mà lòng chua xót.
Giữa cuộc đời đầy biến động, Trần Huyền Trân chọn cách cười ha hả mà uống rượu, nhưng ẩn sau tiếng cười ấy là nỗi uất nghẹn, là nỗi đau không thể nói thành lời.
Bài thơ không chỉ là một bức chân dung của riêng ông, mà còn là tiếng lòng của bao thế hệ nghệ sĩ, trí thức trong những thời khắc đen tối của lịch sử.
Và rồi, như một kẻ lữ hành cô độc, Trần Huyền Trân vẫn tiếp tục bước đi, vẫn tiếp tục cất lên khúc hát của riêng mình, dù chẳng biết có ai sẽ lắng nghe…
*
Trần Huyền Trân – Nhà thơ, nhà hoạt động sân khấu tài hoa
Trần Huyền Trân (1913-1989), tên thật là Trần Đình Kim, là một nhà thơ và nhà hoạt động sân khấu xuất sắc của Việt Nam. Ông không chỉ ghi dấu ấn sâu đậm trong phong trào Thơ mới với những vần thơ đầy trăn trở và suy tư, mà còn có những đóng góp quan trọng trong việc bảo tồn và phát triển nghệ thuật sân khấu truyền thống, đặc biệt là chèo.
Bắt đầu sáng tác từ năm 20 tuổi, thơ ông mang màu sắc tự sự, hoài niệm, phản ánh những nỗi niềm lữ khách cô độc, trăn trở về thân phận con người và thời cuộc. Một số tác phẩm tiêu biểu có thể kể đến như Mười năm, Độc hành ca, Uống rượu với Tản Đà, Mưa đêm lều vó…
Sau Cách mạng tháng Tám, ông tham gia kháng chiến, hoạt động trong lĩnh vực sân khấu và dành trọn tâm huyết để gìn giữ nghệ thuật chèo. Ông là một trong những người sáng lập nhóm chèo Cổ Phong, sưu tầm và chỉnh lý nhiều tích chèo cổ nổi tiếng như Xúy Vân giả dại, Quan Âm Thị Kính…, góp phần gìn giữ tinh hoa sân khấu dân gian Việt Nam.
Di sản nghệ thuật của Trần Huyền Trân vô cùng phong phú, trải dài trên nhiều thể loại: thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch, chèo. Một số tác phẩm nổi bật gồm: Thơ: Mười năm, Độc hành ca, Mưa đêm lều vó… Tiểu thuyết, truyện ngắn: Tấm lòng người kỹ nữ (1941), Người ngàn thu cũ (1942), Sau ánh sáng (1940)… Kịch, chèo: Lên đường, Tú Uyên Giáng Kiều, Lý Thường Kiệt, Hoàng Văn Thụ, Lửa Hà Nội…
Năm 2007, ông được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật, ghi nhận những cống hiến to lớn đối với văn hóa Việt Nam.
Cuộc đời của Trần Huyền Trân là sự giao thoa giữa thi ca và sân khấu, giữa trữ tình và chính luận, để lại một di sản quý giá cho hậu thế.
Viên Ngọc Quý.