Cảm nhận bài thơ: Trường xưa – Bàng Bá Lân

Trường xưa

Kính tặng phụ thân

Chĩnh chện trên giường giữa,
Thầy đồ vắt chéo khoeo.
Nghiêng mình tựa gối xếp,
Thơ hứng, đùi rung đều.

Trên phản bốn chung quanh,
Học trò phục la liệt.
Cao giọng như cầu kinh:
“Ư a… Khổng Tử viết…”

Đầu đường gian bên trái,
Anh trưởng tràng tô son
Trên trang phóng còn mới
Một trò vừa nhập môn.

Mấy cái đầu thả chỏm
Châu vào một bản sao.
Những bàn tay vụng dại
Tô mực nét son đào.

Đĩa son tươi rực rỡ
Như má cô dậy thì.
Nghiên mực đen kín đáo,
Roi mây nằm uy nghi.

Ngọn bút lông hiền lành
Trong tay trò dễ bảo.
Nhưng lại khi sắc sảo
Trong tay thày đưa nhanh.

Giấy ta, bìa phất cậy
Đưa thoảng mùi dịu êm.
Người trước tìm trong ấy
Mênh mông đạo thánh hiền.

Trưa rồi, giọng ngâm nga
Vang vang trong nhà lá.
Tiếng gà trưa xa xa,
Làng trưa im lặng quá.

Người người đều lắng tai
Nghe tiếng học ngân dài.
Ao vàng không gợn sóng,
Tre xanh bặt tiếng cười…

*

Trường Xưa – Một Thời Để Nhớ

Có những hình ảnh, có những âm thanh, dù đã thuộc về quá khứ nhưng vẫn vang vọng mãi trong tâm hồn. Trường xưa của Bàng Bá Lân là một bức tranh sống động về lớp học thuở trước – nơi chữ nghĩa được trao truyền dưới mái lá đơn sơ, nơi tiếng ê a vang lên hòa cùng nhịp sống bình dị của làng quê Việt Nam.

Mái trường xưa – Một góc ký ức không phai

Mở đầu bài thơ, tác giả đưa ta vào không gian một lớp học truyền thống:

“Chĩnh chện trên giường giữa,
Thầy đồ vắt chéo khoeo.
Nghiêng mình tựa gối xếp,
Thơ hứng, đùi rung đều.”

Hình ảnh người thầy đồ xuất hiện với dáng vẻ thư thái, trầm tư, toát lên vẻ uy nghiêm nhưng cũng rất đỗi gần gũi. Cái “đùi rung đều” ấy không chỉ thể hiện phong thái tự tại mà còn gợi lên nhịp điệu của sự trầm tư, của bao năm tháng miệt mài truyền thụ đạo lý.

Còn học trò thì sao? Họ ngồi quây quần, chăm chú vào từng con chữ:

“Trên phản bốn chung quanh,
Học trò phục la liệt.
Cao giọng như cầu kinh:
‘Ư a… Khổng Tử viết…'”

Tiếng đọc bài râm ran vang lên, đều đặn như tiếng chuông chùa, mang theo hơi thở của Nho học và đạo lý thánh hiền. Không gian ấy không chỉ là nơi học chữ mà còn là nơi hun đúc nhân cách, nơi từng thế hệ trưởng thành với ý thức trách nhiệm và đạo làm người.

Hình ảnh tuổi thơ – Những ngày đầu đến lớp

Bàng Bá Lân không chỉ tái hiện lớp học mà còn khắc họa từng khoảnh khắc nhỏ bé nhưng đầy ý nghĩa. Đó là hình ảnh người anh trưởng tràng tô son cho trang giấy của trò mới nhập môn:

“Đầu đường gian bên trái,
Anh trưởng tràng tô son
Trên trang phóng còn mới
Một trò vừa nhập môn.”

Cảnh tượng này gợi nhớ những ngày đầu tiên đi học, khi bàn tay còn vụng về, nét chữ còn non nớt, nhưng ánh mắt lại đầy háo hức và say mê. Những nét mực son đào không chỉ đánh dấu khởi đầu của một chặng đường học tập mà còn tượng trưng cho niềm hy vọng, cho ước mơ tuổi thơ.

Hình ảnh nghiên mực, bút lông, roi mây – tất cả đều gợi lên một nền giáo dục xưa, nơi mà sự nghiêm khắc song hành cùng lòng tận tâm:

“Nghiên mực đen kín đáo,
Roi mây nằm uy nghi.
Ngọn bút lông hiền lành
Trong tay trò dễ bảo.
Nhưng lại khi sắc sảo
Trong tay thầy đưa nhanh.”

Ngọn bút trong tay trò là công cụ của sự rèn luyện, nhưng trong tay thầy lại là biểu tượng của tri thức, của sự dạy dỗ tận tụy.

Không gian tĩnh lặng – Một nốt trầm thiêng liêng

Nếu nửa đầu bài thơ là những âm thanh, những chuyển động thì nửa sau lại lắng xuống trong sự tĩnh lặng trang nghiêm. Đó là khoảng thời gian buổi trưa, khi tất cả như chìm trong sự trầm mặc:

“Trưa rồi, giọng ngâm nga
Vang vang trong nhà lá.
Tiếng gà trưa xa xa,
Làng trưa im lặng quá.”

Âm thanh duy nhất còn lại là giọng ngâm nga vang vọng. Tiếng học trò hòa vào không gian làng quê, nơi những tiếng gà trưa điểm nhịp thời gian, nơi hàng tre đứng yên, ao làng lặng sóng.

“Người người đều lắng tai
Nghe tiếng học ngân dài.
Ao vàng không gợn sóng,
Tre xanh bặt tiếng cười…”

Tất cả dường như đang ngưng đọng lại, để lắng nghe, để cảm nhận cái thiêng liêng của con chữ, của tri thức được truyền trao qua bao thế hệ.

Lời kết – Một giá trị vĩnh hằng

Bài thơ Trường xưa không chỉ là một hoài niệm về nền giáo dục truyền thống, mà còn là lời nhắc nhở về giá trị của tri thức và đạo lý. Dù thời gian có trôi qua, dù nền giáo dục có đổi thay, nhưng hình ảnh những lớp học, những người thầy tận tụy, những trò nhỏ ngày đầu cắp sách đến trường vẫn luôn in sâu trong ký ức của mỗi người.

Mái trường ấy, dù đơn sơ, nhưng đã từng là nơi gieo mầm tri thức, nơi hun đúc bao thế hệ. Và có lẽ, dù thời đại có đổi thay, dù cuộc sống có hối hả thế nào, thì mỗi khi nhớ về ngôi trường thuở nhỏ, ta vẫn sẽ nghe vang vọng đâu đó tiếng học ngân dài – âm thanh của một thời tuổi thơ, một thời để nhớ.

*

Bàng Bá Lân – Nhà thơ của hồn quê Việt

Bàng Bá Lân (1912–1988) là một nhà thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại, nổi bật với những vần thơ mộc mạc, giản dị nhưng thấm đẫm tình quê hương và nhân sinh. Ông là một trong những gương mặt chủ chốt của phong trào Thơ Mới, với phong cách trữ tình, nhẹ nhàng và giàu hình ảnh.

Thơ Bàng Bá Lân phản ánh vẻ đẹp của làng quê Việt Nam, từ những buổi trưa hè, xóm chợ chiều đông đến hình ảnh mái trường làng, vườn dừa xanh mướt. Bên cạnh đó, ông còn có những vần thơ sâu sắc về tình yêu, hoài niệm và triết lý nhân sinh. Các tác phẩm tiêu biểu của ông gồm Trưa hè, Xóm chợ chiều đông, Vườn dừa, Giai nhân…

Không chỉ là nhà thơ, Bàng Bá Lân còn là nhà giáo và nhiếp ảnh gia, để lại dấu ấn sâu đậm trong văn hóa Việt Nam. Thơ ông như một bức tranh làng quê yên bình, là tiếng lòng của những tâm hồn yêu thương vẻ đẹp dung dị mà vĩnh hằng của đất nước.

Viên Ngọc Quý.

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *