Cảm nhận bài thơ: Nhị Khê – làng Nguyễn Trãi – Tô Hà

Nhị Khê – làng Nguyễn Trãi

Từ thuở xa xưa đã có làng
Duy một điều cháu con chưa biết
Tên nhà thơ có trước hay tên làng có trước
Phi Khanh – Nhị Khê, khe nước thơm…

Sông qua làng lấp loáng ánh trăng xanh
Câu hát cũ vẫn bắc cầu dải yếm
Em – gái Khánh Vân – anh, trai Dũi Tiện
Đẫ yêu nhau ta rủ nhau về…

Làng êm đềm bóng lá xanh che
Đường gạch chỉ lát hồng tận ngõ
Dậu ô rô lá khoe bướm vẽ
Ổi vườn ai cành mọc vói qua đường

Trại Ổi xưa còn dấu tích đó chăng
Người bộ tộc nào đến đây quần tụ
Đất thấm máu bao phen giặc giã
Cổng chòi xây bền chắc bấy rêu xanh?…

Như ong bày cần mẫn trước thời gian
Làng Dũi Tiện – còng lưng vẫn tiện
Ngón tay xiết vẹt cán vồ gỗ nghiến
Mà cuộc đời cơ cực có ra sao?…

Lương Văn Can nổi sóng một phong trào
Lương Ngọc Quyến đông du chống Pháp
Con nối cha, đời nối đời, quyết liệt
Cùng quân thù không đội trời chung

Làng sĩ phu vó ngựa thảy dừng cương
Đền Nguyễn Trãi – ngựa qua phải dắt
Ngõ chính vào làng, đây – Ngõ Quốc
Con đường sửa mới rộng thênh…

Nước đã thanh bình – cây thắm xanh
Giêng hai này nhé bạn qua thăm
Biết đâu chẳng gặp trên đồng Nguyễn
Người về nón lá vác bừa xuân


Nhị Khê, 22-1-2978

Dũi Tiện, Trại Ổi: Tên cũ làng Nhị Khê

*

Nhị Khê – Làng Nguyễn Trãi: Hồn thiêng đất nước

Trên dải đất hình chữ S, có những vùng quê không chỉ đẹp bởi cảnh sắc thiên nhiên mà còn mang trong mình chiều sâu văn hóa, lịch sử. Nhị Khê – ngôi làng nhỏ bên dòng sông xanh thẳm – chính là nơi sinh ra một bậc hiền tài kiệt xuất của dân tộc: Nguyễn Trãi. Trong bài thơ Nhị Khê – làng Nguyễn Trãi, Tô Hà đã tái hiện một miền quê vừa bình dị, nên thơ, vừa thấm đẫm tinh thần yêu nước và truyền thống hiếu học.

Làng quê – nơi hun đúc tâm hồn Nguyễn Trãi

Nhị Khê hiện lên trong thơ Tô Hà như một bức tranh quê mộc mạc mà chan chứa hơi thở lịch sử. Dòng sông lấp loáng ánh trăng xanh, những con đường lát gạch chỉ đỏ hồng, hàng dậu ô rô nở hoa khoe sắc, vườn ổi xanh rì… Tất cả tạo nên một không gian yên bình, nơi con người sống hiền hòa với thiên nhiên:

“Làng êm đềm bóng lá xanh che
Đường gạch chỉ lát hồng tận ngõ
Dậu ô rô lá khoe bướm vẽ
Ổi vườn ai cành mọc vói qua đường…”

Giữa khung cảnh ấy, người đọc như nghe được tiếng vọng từ quá khứ, tự hỏi rằng:

“Tên nhà thơ có trước hay tên làng có trước
Phi Khanh – Nhị Khê, khe nước thơm…”

Tên tuổi của Nguyễn Phi Khanh và Nguyễn Trãi đã hòa vào đất mẹ Nhị Khê, làm nên niềm tự hào của bao thế hệ. Phải chăng chính nơi đây, với dòng sông êm đềm, với những con người cần mẫn, với truyền thống học hành và yêu nước, đã hun đúc nên nhân cách và trí tuệ của người anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi?

Nhị Khê – dấu tích một thời oanh liệt

Không chỉ là nơi sản sinh ra danh nhân kiệt xuất, Nhị Khê còn mang trong mình những dấu ấn lịch sử đau thương nhưng kiêu hùng. Đất này từng thấm máu bao cuộc chiến chống giặc ngoại xâm, từng chứng kiến những cuộc khởi nghĩa sục sôi:

“Đất thấm máu bao phen giặc giã
Cổng chòi xây bền chắc bấy rêu xanh…”

Những con người ở đây không chỉ biết làm ăn, học hành mà còn mang trong mình tinh thần bất khuất, ý chí kiên cường:

“Như ong bày cần mẫn trước thời gian
Làng Dũi Tiện – còng lưng vẫn tiện
Ngón tay xiết vẹt cán vồ gỗ nghiến
Mà cuộc đời cơ cực có ra sao?…”

Chính từ cái nôi ấy, tinh thần yêu nước đã được truyền từ đời này sang đời khác, từ Nguyễn Trãi đến Lương Văn Can, Lương Ngọc Quyến… Những người con của làng Nhị Khê đã không ngừng đứng lên chống giặc, bảo vệ đất nước, nối tiếp nhau viết nên trang sử vẻ vang.

Một Nhị Khê đổi mới – nơi truyền thống và hiện tại giao hòa

Hôm nay, Nhị Khê đã khác xưa. Chiến tranh lùi xa, đất nước thanh bình, cây cối xanh tươi, con đường làng rộng mở. Nhưng những dấu tích của lịch sử vẫn còn đó, như nhắc nhở con cháu về truyền thống kiên trung của cha ông:

“Làng sĩ phu vó ngựa thảy dừng cương
Đền Nguyễn Trãi – ngựa qua phải dắt
Ngõ chính vào làng, đây – Ngõ Quốc
Con đường sửa mới rộng thênh…”

Và dù thời gian có trôi qua, Nhị Khê vẫn giữ được cái hồn cốt của mình. Nơi ấy, người dân vẫn gắn bó với đồng ruộng, vẫn mang trong tim niềm tự hào về mảnh đất thiêng liêng:

“Nước đã thanh bình – cây thắm xanh
Giêng hai này nhé bạn qua thăm
Biết đâu chẳng gặp trên đồng Nguyễn
Người về nón lá vác bừa xuân.”

Hình ảnh ấy gợi nhớ đến câu thơ của Nguyễn Trãi: “Tha niên Nhị Khê ước, Đoản lạp hạ xuân sừ” – mong một ngày trở lại quê hương để cày bừa ruộng tốt. Nguyện ước năm xưa của ông đã hóa thành hiện thực, khi Nhị Khê hôm nay vẫn tràn đầy sức sống, vẫn lưu giữ vẻ đẹp nguyên sơ của một làng quê Việt Nam.

Lời kết – Hồn quê bất diệt

Bài thơ Nhị Khê – làng Nguyễn Trãi của Tô Hà không chỉ là một bức tranh đẹp về quê hương mà còn là bản hòa ca về truyền thống, về lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc. Đó là một Nhị Khê đã sinh ra bậc hiền tài, một Nhị Khê kiên cường qua bao cuộc bể dâu, và một Nhị Khê đang vững bước trên con đường đổi mới.

Giữa dòng chảy thời gian, những ngọn gió mới có thể mang đến những thay đổi, nhưng tinh thần của Nhị Khê – của Nguyễn Trãi, của những người con đất Việt – sẽ mãi trường tồn, như dòng sông xanh vỗ mãi đôi bờ, như những mái lá làng quê xanh thắm qua bao mùa nắng mưa…

*

Nhà thơ Tô Hà – Người gửi hồn vào những vần thơ Hà Nội

Tô Hà (1939 – 1991), tên thật là Lê Duy Chiểu, sinh ra tại Thường Tín, Hà Tây (nay thuộc Hà Nội). Ông không chỉ là một nhà thơ tài hoa mà còn là một cây bút gắn bó sâu sắc với mảnh đất nghìn năm văn hiến. Trong suốt cuộc đời sáng tác, Tô Hà đã để lại dấu ấn đặc biệt trong nền thơ ca Việt Nam, đặc biệt với những tác phẩm mang hơi thở của Hà Nội và cuộc sống đô thị.

Là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, ông từng đảm nhiệm vị trí Trưởng ban Biên tập Báo Người Hà Nội, góp phần đưa tờ báo trở thành một diễn đàn văn chương, nghệ thuật có giá trị. Sự nghiệp thơ ca của Tô Hà gắn liền với những tập thơ giàu hình ảnh và cảm xúc như Hương cỏ mặt trời (1978), Sóng nắng (1981), Hoa vừa đi vừa nở (1981), Thành phố có ngôi nhà của mình (1988), Sóng giữa lòng tay (1990), cùng tác phẩm văn xuôi Chuyện không có trong thư.

Thơ Tô Hà mang phong cách trữ tình, giàu nhạc điệu, thể hiện cái nhìn tinh tế trước những đổi thay của thời cuộc. Ông viết về Hà Nội không chỉ bằng những hoài niệm mà còn bằng tình yêu của một người đã chứng kiến sự trưởng thành và chuyển mình của thành phố. Những bài thơ của ông thường chất chứa sự giản dị nhưng sâu lắng, khiến người đọc dễ dàng đồng cảm và rung động.

Cuộc đời Tô Hà tuy ngắn ngủi, ông qua đời năm 1991 do bệnh suy thận, nhưng những tác phẩm ông để lại vẫn còn vang vọng trong lòng độc giả yêu thơ. Với sự nghiệp gắn bó cùng Hà Nội và thơ ca, ông đã trở thành một phần không thể thiếu của văn học Việt Nam hiện đại.

Viên Ngọc Quý.

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *