Tiếng sóng
J’aime à faire vibrer sans fin ma lyre d’or
Aux multiples accents de ta voix innombrable.
H.T.
(Sourvenirs)
Có nhiều sáng, gió mơ mòng dìu dặt,
Ánh bình minh vàng dịu dãi màu tươi,
Trên bể xanh, những đợt sóng tuyệt vời.
Như một bọn nhạc công miền tiên giới,
Du dương gẩy những nhịp đàn êm ái,
Sóng khoan thai vui gợn tới chân trời!
Ta ước ao, những sáng đó, có giọng ngươi.
Để thì thầm lời nước mây kiều diễm,
Bên tai người ta đắm say âu yếm.
Có nhiều trưa gay gắt, nắng tưng bừng,
Đỉnh chói loà ánh sáng như kim cương,
Những lớp sóng vang lừng và chậm chạp,
Bình tĩnh reo từng khúc hồi dồn dập.
Ta ước ao, những trưa đó, có giọng ngươi,
Để ta ca, hỡi sóng! tính khinh người,
Lòng kiêu căng không bến bờ, không giới hạn,
Với nỗi buồn gớm ghê, niềm ngao ngán
Của một trái tim đau đớn bởi điên cuồng.
Có nhiều chiều đẫm tắm bóng thê lương,
Cùng gió thảm từng hơi dài tấm tức,
Sóng rền rĩ và âm thầm thổn thức,
Tiếng buồn rầu thấm đượm cả bầu trời.
Ta ước ao, những chiều đó, có giọng ngươi.
Sóng, hỡi sóng nặng nề chiều thu tạ!
Để nắn phím lòng thiết tha, ta sẽ hoạ
Nỗi nhớ chung thường réo rắt bên tai
Với niềm tiếc thương những ngày thắm đã phai.
Có nhiều đêm đen tối như địa phủ,
Sóng dữ dội như ma thiêng kêu rú,
Đương khi trong đám tối chớp bập bùng.
Và giông gào và sấm sét đùng đùng
Hỡi sóng đêm hỗn độn lôi đình quát tháo
Cả vũ trụ như toan vùi trong trận bão!
Ta ước ao những đêm đó có giọng ngươi
Để lòng hờn căm ồ phá ra ngoài
Bằng những lời nghiến đay thần Số mệnh,
Trong vòng đau tự ngàn xưa nhất định
Bắt loài người phải lăn lộn, quay cuồng.
Không bao giờ, không bao giờ ngớt tiếng du dương,
Hỡi sóng! Đàn thần tiên muôn thu réo rắt!
Sóng lòng ta cũng không bao giờ ngớt
Tiếng mơ mòng ca nhịp buồn vui.
Cho nên ta ao ước có giọng ngươi.
Để man mác gợi khêu hồn nghệ sĩ,
Ta hoạ lại tiếng đàn tâm huyền bí.
*
Tiếng Sóng – Bản Hòa Tấu Của Tâm Hồn Nghệ Sĩ
Bài thơ Tiếng Sóng của Huy Thông không chỉ vẽ nên một bức tranh thiên nhiên sống động mà còn là bản giao hưởng của cảm xúc con người, nơi sóng biển trở thành tiếng vọng của tâm hồn thi sĩ. Ngay từ câu mở đầu bằng tiếng Pháp:
“J’aime à faire vibrer sans fin ma lyre d’or
Aux multiples accents de ta voix innombrable.”
(Tạm dịch: “Tôi thích làm rung lên mãi mãi cây đàn lia vàng của mình, với muôn vàn âm sắc từ giọng nói vô tận của bạn.”)
Huy Thông đã khẳng định niềm đam mê mãnh liệt với nghệ thuật, với thơ ca và những thanh âm bất tận của thiên nhiên. “Cây đàn lia vàng” chính là biểu tượng của thi ca, còn “giọng nói vô tận” có thể hiểu là tiếng sóng, là thanh âm không ngừng của biển cả, cũng như những cung bậc cảm xúc vô tận trong tâm hồn nghệ sĩ.
Bài thơ mở ra với bốn bức tranh thời gian: sáng, trưa, chiều và đêm, mỗi thời khắc mang một sắc thái riêng của sóng biển, phản chiếu những trạng thái tâm hồn con người.
Buổi sáng, sóng nhẹ nhàng, êm dịu như những khúc nhạc du dương của thiên nhiên:
Trên bể xanh, những đợt sóng tuyệt vời,
Như một bọn nhạc công miền tiên giới,
Sóng buổi sáng gợi lên sự thanh thản, mơ mộng và khát khao một giọng nói đồng điệu để hòa vào bản nhạc thiên nhiên.
Buổi trưa, sóng trở nên mạnh mẽ, hừng hực khí thế, phản chiếu khát vọng và niềm kiêu hãnh của con người:
Những lớp sóng vang lừng và chậm chạp,
Bình tĩnh reo từng khúc hồi dồn dập.
Sóng lúc này không chỉ là nhịp điệu thiên nhiên mà còn là biểu tượng của khát vọng vươn cao, của tinh thần bất khuất, dù bên trong ẩn chứa cả sự ngạo nghễ và cô đơn.
Buổi chiều, sóng lại mang sắc thái u buồn, hòa vào khung cảnh thê lương của hoàng hôn:
Sóng rền rĩ và âm thầm thổn thức,
Tiếng buồn rầu thấm đượm cả bầu trời.
Sóng chiều gợi nhắc đến nỗi nhớ nhung, hoài niệm về những điều đã mất, giống như con người khi đến một độ tuổi nào đó, chợt quay đầu nhìn lại quá khứ và tiếc nuối những ngày tháng thanh xuân.
Đêm xuống, sóng không còn dịu dàng hay trầm buồn, mà trở nên dữ dội, cuồng nộ:
Sóng dữ dội như ma thiêng kêu rú,
Đương khi trong đám tối chớp bập bùng.
Hình ảnh sóng đêm như đại diện cho những cơn giận dữ của thiên nhiên, cũng như những cơn bão lòng trong tâm hồn con người. Đây là lúc những uất hận, đau đớn, những nỗi niềm chất chứa lâu ngày bùng nổ thành một trận cuồng phong dữ dội, thách thức cả số phận.
Xuyên suốt bài thơ, hình ảnh sóng biển không chỉ là một hiện tượng thiên nhiên mà còn mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Sóng là tiếng lòng của thi nhân, là nhịp đập của tâm hồn luôn khát khao yêu thương, luôn giằng xé giữa những cung bậc cảm xúc đối lập. Từ dịu dàng đến mãnh liệt, từ say đắm đến giận dữ, sóng mang trong mình tất cả những gì sâu thẳm nhất của tâm hồn con người.
Và cũng chính vì vậy, nhà thơ đã khép lại bài thơ bằng một lời ao ước đầy tha thiết:
Cho nên ta ao ước có giọng ngươi.
Để man mác gợi khêu hồn nghệ sĩ,
Ta hoạ lại tiếng đàn tâm huyền bí.
Huy Thông không chỉ tìm kiếm một giọng nói đồng điệu mà còn mong muốn lưu giữ những thanh âm muôn đời của sóng, của thiên nhiên, và của chính lòng mình. Tiếng Sóng không chỉ là một bài thơ trữ tình xuất sắc mà còn là sự giao hòa giữa thiên nhiên và con người, giữa thơ ca và nhạc điệu, giữa hiện thực và khát vọng bất diệt của tâm hồn nghệ sĩ.
*
Phạm Huy Thông (1916–1988) – Nhà thơ, nhà giáo, nhà khoa học xã hội Việt Nam
Phạm Huy Thông sinh ngày 22 tháng 11 năm 1916 tại Hà Nội, trong một gia đình kinh doanh lớn, giàu tinh thần dân tộc. Ông là hậu duệ của danh tướng Phạm Ngũ Lão, quê gốc ở Hưng Yên.
Ngay từ nhỏ, Phạm Huy Thông đã bộc lộ tài năng xuất sắc. Ông nổi tiếng trong phong trào Thơ Mới với bài Tiếng địch sông Ô khi mới 16 tuổi. Năm 21 tuổi, ông tốt nghiệp cử nhân Luật tại Viện Đại học Đông Dương, sau đó sang Pháp tiếp tục học tập và trở thành Tiến sĩ Luật, Thạc sĩ Sử – Địa khi mới 26 tuổi. Ông từng là Giáo sư, Ủy viên Hội đồng Giáo dục tối cao của Pháp và có thời gian giúp việc Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hội nghị Fontainebleau năm 1946.
Sau khi trở về Việt Nam, ông giữ nhiều trọng trách như Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (1956–1966), Viện trưởng Viện Khảo cổ học (1967–1988), Đại biểu Quốc hội khóa II, III. Ông có nhiều đóng góp trong nghiên cứu lịch sử, khảo cổ học với các công trình tiêu biểu như Thời đại các Vua Hùng dựng nước, Khảo cổ học 10 thế kỷ sau Công nguyên, Khảo cổ học với văn minh thời Trần.
Bên cạnh sự nghiệp khoa học, ông còn là nhà thơ, có thơ được nhắc đến trong Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh – Hoài Chân. Năm 2000, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh. Tên ông được đặt cho nhiều con đường tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh.
Ông qua đời ngày 21 tháng 6 năm 1988 tại Hà Nội.
Viên Ngọc Quý.