Cảm nhận bài thơ: Tiếng ái ân – Huy Thông

Tiếng ái ân

 

Tặng Nguyễn Nhược Pháp

Lời thiếu nữ:

Em không muốn mơ màng trong cảnh mộng,
Nhìn trăng lên sương tỏa với mây trôi,
Nghe đàn chiều nơi đầu dây trầm bổng
Vẳng đưa sang theo hơi gió xa xôi.

Em không muốn du chân bên hồ vắng
Ngắm vừng ô xa phai ánh dần dần.
Em không muốn trông hoàng hôn yên lặng,
Lặng ngồi nghe như vang tiếng ái ân…

Vì, than ôi, tiếng ái ân đằm thắm
Chỉ chờ khi em thơ thẩn bên rèm,
Ngắm mây vẩn trên không gian thăm thẳm,
Là êm đềm réo rắt bên tai em!

Em sợ nghe, khi chiều tàn đêm hết
Vẳng bên tai tiếng gọi của ái ân,
Là vì rằng lòng yêu đương tha thiết
Em đã trao tất cả cho tình quân.

Em đã thiết tha trao, tình quân hỡi!
Lòng yêu đương tha thiết trong tay ai
Mà vì đâu bao ngày em mong đợi,
Luyến phòng văn, ai nỡ lặng yên hoài…

Em quyết không bao giờ thèm tưởng tới
Kẻ khi xưa em mong đợi ngày đêm
Và bao phen lòng kiêu căng sôi nổi,
Em bắt lòng khinh kẻ đã khinh em!

Nhưng, luôn luôn, tiếng đàn chiều van vỉ,
Sương lam tan, mây thắm, liễu yêu kiều
Như khuyên em chớ vì ai bỏ phí
Ngày xuân xanh, nhan sắc với tình yêu.

Muôn ngày xưa trong ngày xuân rực rỡ
Em cố yêu kẻ khác… nhưng than ôi!
Không bao giờ em yêu ai được nữa;
Không bao giờ được nữa, tình quân ôi!

Cho nên đã bao ngày, em không muốn
Nhìn liễu xanh mơn trớn nước rung rinh,
Nhìn mây êm nơi xa xa nhẹ cuốn
Như mang qua tiếng gọi của ái tình.

*

Tiếng Ái Ân – Khúc Bi Thương Của Một Trái Tim Tổn Thương

Có những vết thương dù không còn rỉ máu, nhưng vẫn mãi âm ỉ trong tâm hồn. Có những lời hẹn ước dù đã phai nhòa theo năm tháng, nhưng vẫn vọng lại trong từng khoảnh khắc của cuộc đời. Bài thơ “Tiếng Ái Ân” của Huy Thông là một tiếng lòng day dứt của người con gái từng yêu hết mình, để rồi bị bỏ lại giữa những tháng năm cô quạnh. Tình yêu của nàng không còn là những giấc mộng ngọt ngào, mà đã trở thành một vết cứa sâu, khiến nàng sợ hãi trước mọi hình ảnh, mọi âm thanh gợi nhớ về quá khứ.

1. Khi tình yêu hóa thành nỗi sợ

“Em không muốn mơ màng trong cảnh mộng,
Nhìn trăng lên sương tỏa với mây trôi,
Nghe đàn chiều nơi đầu dây trầm bổng
Vẳng đưa sang theo hơi gió xa xôi.”

Bài thơ mở đầu bằng sự khước từ của nhân vật trữ tình đối với những hình ảnh lãng mạn của thiên nhiên – trăng, sương, mây, tiếng đàn chiều. Những điều vốn dĩ thơ mộng, từng là nguồn cảm hứng của tình yêu, giờ đây lại trở thành nỗi ám ảnh.

Nàng không muốn ngắm hoàng hôn, không muốn thả hồn theo tiếng đàn, không muốn lắng nghe bất kỳ âm thanh nào vọng lại từ quá khứ. Bởi mỗi lần chạm vào những điều ấy, trái tim nàng lại thổn thức. Nàng sợ những tiếng gọi mơ hồ của tình yêu, sợ cả những ký ức đã qua.

Tình yêu từng là tất cả với nàng, nhưng giờ đây, nó chỉ còn là một điều khiến nàng trốn tránh.

2. Đau đớn vì bị lãng quên

“Vì, than ôi, tiếng ái ân đằm thắm
Chỉ chờ khi em thơ thẩn bên rèm,
Ngắm mây vẩn trên không gian thăm thẳm,
Là êm đềm réo rắt bên tai em!”

Sự trốn tránh của nàng không phải là vì nàng đã quên, mà chính vì nàng không thể quên. Những thanh âm của quá khứ vẫn còn văng vẳng bên tai, dù nàng cố gắng chối bỏ. Đó là tiếng của những lời hứa hẹn, của những phút giây nồng nàn ngày trước.

“Em đã thiết tha trao, tình quân hỡi!
Lòng yêu đương tha thiết trong tay ai
Mà vì đâu bao ngày em mong đợi,
Luyến phòng văn, ai nỡ lặng yên hoài…”

Nàng đã trao đi tất cả, đã yêu bằng một trái tim chân thành và mãnh liệt. Nhưng đáp lại sự đợi chờ ấy chỉ là sự im lặng. Người nàng yêu đã rời xa, đã quên mất những lời hẹn ước, bỏ mặc nàng giữa căn phòng trống trải, giữa những tháng ngày dài đằng đẵng.

Đây không chỉ là nỗi đau của sự chia xa, mà còn là nỗi đau của sự bị lãng quên. Một tình yêu từng rực cháy, giờ đây lại chỉ còn là một dư âm phai nhạt trong lòng người ấy.

3. Kiêu hãnh và giằng xé trong tâm hồn

“Em quyết không bao giờ thèm tưởng tới
Kẻ khi xưa em mong đợi ngày đêm
Và bao phen lòng kiêu căng sôi nổi,
Em bắt lòng khinh kẻ đã khinh em!”

Nàng cố gắng dùng lòng kiêu hãnh để xoa dịu vết thương. Nếu người ấy đã quên, nàng cũng sẽ quên. Nếu người ấy đã rời xa, nàng cũng sẽ không còn mong đợi.

Nhưng thật trớ trêu, trái tim không nghe theo lý trí.

“Nhưng, luôn luôn, tiếng đàn chiều van vỉ,
Sương lam tan, mây thắm, liễu yêu kiều
Như khuyên em chớ vì ai bỏ phí
Ngày xuân xanh, nhan sắc với tình yêu.”

Những hình ảnh thiên nhiên, những thanh âm quen thuộc vẫn không ngừng khơi gợi cảm xúc trong lòng nàng. Chúng như những lời khuyên nhủ dịu dàng: đừng để thanh xuân trôi qua vô ích, đừng để tình yêu bị chôn vùi trong đau khổ.

Nhưng liệu nàng có thể mở lòng lần nữa? Liệu có ai có thể thay thế người mà nàng đã từng yêu hết mình?

4. Không thể yêu thêm một lần nào nữa

“Muôn ngày xưa trong ngày xuân rực rỡ
Em cố yêu kẻ khác… nhưng than ôi!
Không bao giờ em yêu ai được nữa;
Không bao giờ được nữa, tình quân ôi!”

Dù lý trí muốn quên, dù thiên nhiên muốn nàng tiếp tục yêu, nhưng trái tim nàng đã khép lại. Nàng đã thử mở lòng, đã cố gắng yêu một người khác, nhưng tất cả chỉ là vô vọng.

Tình yêu đầu tiên, tình yêu mãnh liệt nhất, đã khắc sâu trong tâm hồn nàng. Nó không thể bị thay thế, không thể bị lãng quên, và cũng không thể được lặp lại.

Đây chính là bi kịch lớn nhất của bài thơ: không phải vì nàng không thể yêu, mà vì nàng không thể yêu ai khác ngoài người cũ.

5. Lời kết – Tiếng vọng của một tình yêu không thể quên

“Cho nên đã bao ngày, em không muốn
Nhìn liễu xanh mơn trớn nước rung rinh,
Nhìn mây êm nơi xa xa nhẹ cuốn
Như mang qua tiếng gọi của ái tình.”

Bài thơ khép lại bằng một sự trốn tránh đầy bất lực. Những điều từng khiến nàng say đắm, giờ đây chỉ gợi lên những vết thương cũ. Nàng không muốn nhớ, nhưng cũng không thể quên.

“Tiếng Ái Ân” không chỉ là một bài thơ về tình yêu, mà còn là một khúc bi ai về sự phản bội, sự chờ đợi và sự bất lực của một trái tim bị tổn thương. Huy Thông đã khắc họa nỗi đau của người con gái bằng những vần thơ đầy ám ảnh, nơi mà tình yêu không chỉ mang lại hạnh phúc, mà còn là một vết thương không bao giờ lành.

Dù thời gian có trôi, dù nàng có cố gắng quên đi, nhưng tiếng ái ân vẫn mãi vọng lại trong lòng nàng, như một lời nhắc nhở về một tình yêu không bao giờ trở lại.

*

Phạm Huy Thông (1916–1988) – Nhà thơ, nhà giáo, nhà khoa học xã hội Việt Nam

Phạm Huy Thông sinh ngày 22 tháng 11 năm 1916 tại Hà Nội, trong một gia đình kinh doanh lớn, giàu tinh thần dân tộc. Ông là hậu duệ của danh tướng Phạm Ngũ Lão, quê gốc ở Hưng Yên.

Ngay từ nhỏ, Phạm Huy Thông đã bộc lộ tài năng xuất sắc. Ông nổi tiếng trong phong trào Thơ Mới với bài Tiếng địch sông Ô khi mới 16 tuổi. Năm 21 tuổi, ông tốt nghiệp cử nhân Luật tại Viện Đại học Đông Dương, sau đó sang Pháp tiếp tục học tập và trở thành Tiến sĩ Luật, Thạc sĩ Sử – Địa khi mới 26 tuổi. Ông từng là Giáo sư, Ủy viên Hội đồng Giáo dục tối cao của Pháp và có thời gian giúp việc Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hội nghị Fontainebleau năm 1946.

Sau khi trở về Việt Nam, ông giữ nhiều trọng trách như Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (1956–1966), Viện trưởng Viện Khảo cổ học (1967–1988), Đại biểu Quốc hội khóa II, III. Ông có nhiều đóng góp trong nghiên cứu lịch sử, khảo cổ học với các công trình tiêu biểu như Thời đại các Vua Hùng dựng nước, Khảo cổ học 10 thế kỷ sau Công nguyên, Khảo cổ học với văn minh thời Trần.

Bên cạnh sự nghiệp khoa học, ông còn là nhà thơ, có thơ được nhắc đến trong Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh – Hoài Chân. Năm 2000, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh. Tên ông được đặt cho nhiều con đường tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh.

Ông qua đời ngày 21 tháng 6 năm 1988 tại Hà Nội.

Viên Ngọc Quý.

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *