Tiếng địch sông Ô
Hán binh dĩ lược địa,
Tứ diện Sở ca thanh.
Đại vương ý khí tận,
Tiện thiếp hà liêu sinh?
(Ngu Cơ)
Quân Hán lấy hết đất,
Khúc Sở vang bốn bề.
Đại vương chí lớn cạn,
Tiện thiếp sống làm chi?
I
Sở Bá Vương ngồi yên trên mình ngựa,
Giương mắt buồn say ngắm chân trời xa.
Trong sương thu nhẹ đượm ánh dương tà,
Quân Lưu Bang đang tưng bừng hạ trại.
Khói tung bay trên vòm trời rộng rãi
Như muôn sao trong đám tối mơ màng.
Khắp bốn phương, giáo mác toả hào quang,
Liên tiếp nhau chen chúc xung quanh ven trời lớn.
Mấy làn trại (lưới xa xôi, mịt mùng và chắc chắn)
Đóng trùng trùng, điệp điệp trên đầu non.
Cờ chư hầu đỏ rực như pha son,
Quằn quại cong trên nền trời lá mạ.
Gió quát bên tai Vương, và rộn rã,
Tiếng quân reo, tiếng ngựa hí, tiếng loa vang,
Theo gió chiều vi vút vẳng đưa sang.
Nhưng, lặng lẽ, bâng khuâng, vua nước Sở,
Như pho tượng đồng, ngồi trên mình ngựa,
Để luồng mắt mênh mang
Như vấn vương, như vơ vẩn trên Ô giang.
Vì Vương rõ, phía sông Ô, binh Phàn Khoái,
Mới hôm trước bị quân mình xô qua ải,
Nên vòng vây chưa kịp khoá trước bình minh.
Vương toan, khi đêm tối, chỉ huy binh,
Chém quân Khoái vừa thua như cắt cỏ,
Phá trùng vi tan tành về hướng đó.
Vương sẽ dàn tướng sĩ bên kia sông,
Họp chư hầu còn trung tín cho thật đông,
Rồi máu Hán rửa lâng lâng hờn Cai Hạ.
Vương sẽ như năm nào đem binh mã
Lại tung hoành trên thế giới mênh mông,
Vương sẽ lại (ôi vinh quang) trong bão lửa vẫy vùng,
Vương sẽ lại tơi bời vung kiếm thép,
Và, đưa tay, giành lại tấm giang sơn,
Vương sẽ lại…
Nhưng bóng đêm đã xoá cảnh hoàng hôn,
Và phương xa, mơ hồ, trăng le lói,
Một trận gió hung hăng đùng đùng nổi,
Vặn mạnh cờ trên nóc trại ngất cao,
Vương khoan thai, buộc lại dải chiến bào,
Rồi xuống ngựa bước vào trong trướng gấm.
II
Trướng thênh thang, lạnh lùng và u ám,
Sở Bá Vương đứng sững trước cửa phòng,
Để nỗi buồn, một nỗi buồn u uất mênh mông,
Ngao ngán nhẽ, nặng đè lòng người chiến sĩ…
Và chống kiếm trước phòng sầu quạnh quẽ,
Hạng Vương vừa nhác thấy bóng Ngu Cơ,
Nên hỡi ôi! Tia hy vọng lờ mờ
Vương cảm thấy trong lòng ngầm ngấm tắt.
Vương trông…
Vẫn như gặp nàng lần thứ nhất,
Tim anh hùng như ngây ngất say sưa.
Tựa thân mềm vào lưng ỷ, nàng Ngu Cơ
Mắt mơ hồ nhìn qua khung cửa sổ,
Để hồn buồn chơi vơi như bay trên cành gió.
Chỗ nàng ngồi,
Một luồng trăng biêng biếc riêng soi,
Khiến Hạng Vương, trong lòng say, những tưởng
Rời cung Quảng, ả Hằng vừa bay xuống…
Thấy rèm châu êm ái bỗng cuốn lên,
Nàng bâng khuâng sực tỉnh giấc mơ tiên,
Ngoảnh đầu trông thấy quân vương bên trướng,
Nàng đứng dậy. Rồi cúi chào phu tướng,
Bước lại gần, chàng hé miệng, xót đau,
Rồi ngập ngừng toan nói…
Bỗng âu sầu,
Vẳng bên tai như từng lời thổn thức,
Như suối vắng âm thầm chiều thu khóc,
Địch xa xôi dìu dặt trên Ô giang,
Khúc bi ca não ruột và mơ màng,
Như càng khêu những nỗi sầu tịch mịch,
Như ôm ấp, như nấu nung lòng Hạng Tịch.
Hồn đê mê, Sở chúa vuốt tua rèm,
Say sưa nhìn cặp mắt long lanh đen,
Cặp mắt nồng nàn, mà xa xăm, mà say đắm,
Như chan hoà niềm ái ân đằm thắm,
Cặp mày thanh, êm ái như mây cong,
Như núi xuân lưu luyến hơi xuân phong,
Dưới vầng trán bâng khuâng sẽ dịu dàng uốn nét.
Tóc óng đen, như ao trong dưới bóng đêm mù mịt,
Chập chờn bay theo áng gió heo may,
Và êm buông như sóng cuốn trên lưng gầy.
Trên Ô giang đương mơ hồ dìu dặt,
Trong vùng tối âm u, dần dần tiếng địch… tắt.
Tiếng địch tắt. Nhưng dư âm
Trong sương khuya còn văng vẳng điệu âm thầm.
Nén thương đau, Vương ngậm ngùi sẽ kể
Niềm ngao ngán vô biên như trời bể.
Ôi! Tấm gan bền chặt như Thái Sơn
Bao nhiêu thu cay đắng chẳng hề sờn!
Ôi Những trận mạc khiến “trời long đất lở”!
Những chiến thắng tưng bừng, những vinh quang rực rỡ!
Ôi! Những võ công oanh liệt chốn sa trường!
Những buổi tung hoành, lăn lộn trong rừng thương!
Những tướng dũng bị đầu văng trước trận…!
Nhưng, than ôi! Vận trời khi đã tận,
Sức “lay thành, nhổ núi” mà làm chi?
Rồi buồn rầu, Vương tỏ cho nàng nghe
Hy vọng cuối cùng trong tim Vương còn sót lại,
Rồi Vương nói:
– “Nhưng đau lòng ta biết mấy!
Ngay đêm nay, ta phải quyết… biệt ái khanh
Thì, nàng ôi, việc lớn mới mong thành.
Nhưng rời nàng, ôi… rời nàng, ta đâu nỡ…?
Mà mang nàng xông pha trong mưa lửa
Trùng vi kia ta thoát khỏi làm sao?”
Giọt châu sa lã chã trên áo bào,
Nàng Ngu Cơ bên mình chàng thổn thức.
Địch Trương Lương như ngậm sầu quyện khóc,
Lại não nùng dìu dặt trên Ô giang.
Trên Ô giang, tiếng địch thiết tha than,
Như tiếng nhạn kêu đêm nơi ven trời vò võ,
Như tiếng nhạn canh khuya thầm nhủ gió
Tự hư vô lại nức nở tiếng mơ màng,
Nàng Ngu Cơ…
Nàng Ngu Cơ, khẳng khái nắm tay chàng:
“Quân vương ơi ơi! Còn đợi chờ chi nữa
Mà đường xa chàng còn chưa ruổi ngựa?
Trống canh hai trong bóng sẫm đổ hồi,
Còn dùng dằng chi nữa, đi đi thôi!
Kìa! Thờ ơ, trăng mờ đang chênh chếch…
Còn ngồi đó mà nghe chi tiếng địch,
Cho chí đầy dần cạn trong tim đau.
Đừng nghe! Đừng nghe nữa! Hãy đi mau!
Nghe làm chi tiếng tre đằng than ai oán,
Khúc bi ca nặng nề và đòi đoạn,
Đầy những lời thương tiếc điệu thê lương.
Quân vương ôi! Mau sửa soạn lên đường,
Lên đường xa nơi mơ màng sương phủ…
Nào đâu trái tim xưa? Nào đâu tâm hồn cũ?
Lãnh truân chuyên xin gắng giữ chí bình sinh,
Khách anh hào chi xá kể nỗi điêu linh,
Ngày gian lao với quãng đường khe khắt?”
Địch Trương Lương trên Ô giang dìu dặt,
Tưởng trời đêm, trăng biếc lạnh lùng than.
Quỳ sát bên, nàng tha thiết tiếng khuyên van
“Đi đi chàng, nơi xa xăm, tiếng Địch
Càng não lòng, càng âm u, càng tịch mịch…
Đi đi chàng, còn thân Ngu đâu đáng bận trí quân vương?
Lá lìa cây dù gió xé bên vệ đường,
Dù nắng hun, dù mưa dầm làm tan nát,
Xin quân vương chớ bận lòng vì phận bạc!”
Nhưng lời lời tuy dũng cảm, oai linh,
Trong lòng đau niềm thống khổ vẫn mênh mông,
Cố… nàng cố nén u buồn… nhưng không được,
Và sóng lệ ào tuôn, nàng bưng đầu thổn thức…
Tiếng du hồn trong bóng tối vẫn lang thang,
Vẫn âu sầu dìu dặt phía Ô giang.
Địch âm thầm bên tai đưa văng vẳng,
Đương bâng khuâng trong khoảng trời yên lặng,
Bỗng véo von như chim hót, rồi bỗng ngừng,
Rồi lại nổi… xa xôi, và u uất não nùng.
Gan sắt đá như chơi vơi theo tiếng địch,
Vương thấy tan đâu chí anh hùng vô địch,
Cất tiếng buồn, chàng sẽ nói:
“Ái khanh ơi!
Đành… Vận trời khi đã hết cũng đành thôi!
Không, phi ơi!… Thà cùng phi cùng sống chết
Còn hơn phải… phải trọn đời cách biệt!”
Rồi đỡ cằm, chán nản, Sở Bá Vương
Để cặp mắt im giương
Đuổi bóng những ngày vinh trong âm tối.
Nhưng nàng Ngu lại băn khoăn, tha thiết gọi:
“Thiếp đâu ngờ, Quân vương hỡi, trí trượng phu
Lại không hơn lòng nhi nữ chút nào ư?
Nếu vì thiếp, chỉ than ôi, vì tiện thiếp
Mà chàng quên chí cao cùng sự nghiệp,
Thì thân hèn thà vơ vất dưới tuyền đài
Để, đành lòng, chàng nghĩ đến cuộc tương lai.
Đi đi, chàng, đi đi, phu tướng hỡi!
Ngại ngần chi, và u sầu chi mãi…!
Niềm ái ân xưa, chàng hãy gác một bên lòng
Và, quyết tình lên ngựa, thẳng xa rong!
Quân vương trông, trăng liềm càng phai ánh.
Đi đi thôi!”
Sở Bá Vương, lòng quyết định,
Nhìn Ngu Cơ lần cuối và nghẹn ngào:
“Ta đi đây… nàng ở lại… Dù sao,
Có nhan sắc nhường kia nàng chớ sợ…
Vì nay mai khi Hán binh vào trại Sở,
Ta quyết Bang phải hậu đãi riêng nàng.”
Rồi đi ra.
Nhưng trầm trầm bổng bổng Ô giang
Địch Trương Lương vẫn vô hình nức nở,
Như non nước tô sương ngùi than thở
Hoà nỗi lòng u uất cõi đen sâu.
Vương dừng hia đứng lại trước rèm châu,
Rồi, e ấp, ngoảnh nhìn người dưới trướng.
Tiếng than dài vẫn đâu đây bay lưởng vưởng…
Khi nặng nề, khi đắm đuối, khi ngân nga,
Khi mơ hồ, khi êm ả, khi cao xa.
Tiếng địch rung trong cảnh sầu không giới hạn.
Hy vọng gần tàn trong tim Vương như tàn hẳn.
Nhưng bỗng:
– “Buổi gió cuồng xa tống lá vàng bay,
Ta muốn nàng tường lòng son sắt chẳng đổi thay.
Lúc gian nguy cách biệt nàng, ta đâu nỡ!…
Đi! Ta cùng đi! Cùng xông pha trong sóng lửa!
Ta quyết sẽ mang nàng vượt khoỉ trùng vi,
Rồi, cùng nhau ta cùng dấn bước lưu ly!
Mà ví bằng Cao Xanh kia không tựa nữa,
Đôi ta, cùng nhau, cùng chôn thây trong da ngựa:
Bên mình phi, dù bỏ mạng cũng cam tâm.”
– “Nếu chàng mong còn trở lại đất Hoài Âm.
Nếu chí xưa, chí nghiêng trời lệch đất,
Trong trái tim anh hùng chưa tan nát,
Thì, chàng ơi!
Đường mênh mông chàng vỗ ngựa ra đi thôi.
Bằng vì quyến, vì thương thân hèn mọn,
Mà đễn nỗi chàng đành buông chí lớn,
Tiện thiếp đây xin khuất bóng trước mặt chàng,
Cho chàng đi, đi ngang dọc bước ngang tàng,
Cho phỉ sức cường long nơi hồ hải.”
Dứt lời, nàng hăng hái,
Tới bên chàng, cao tuốt lưỡi gươm xanh.
Rồi tự ải.
Vẫn âm thầm trong cõi tối mênh mông,
Địch Trương Lương như ngậm ngùi kể lể,
Nghẹn lời thương chiếc vong hồn quạnh quẽ,
Liều theo mây bạt gởi kiếp lênh đênh!
Như đã dày, đã dạn nỗi điêu linh
Hạng Vũ như không còn biết đau đớn,
Mặt gang thép, nỗi u buồn chẳng gợn,
Chàng nghiêng mình lặng đứng trông người yêu.
Nhưng… hồn bâng khuâng trong cảnh mộng tiêu điều,
Chàng còn cố hình dung đôi mắt sáng,
Đôi mắt sâu xa, và ảo huyền, và xán lạn,
Mà ngàn thu đành tối mãi tự đêm nay.
Nên, tuy nhường… không cảm động mảy may,
Như thản nhiên, như lạnh lùng, như vô giác,
Mà, ngập ngừng trong khoé mắt,
Lần đầu tiên, lệ chiến sĩ long lanh.
Lần đầu tiên, người chiến sĩ đa tình
Để lệ bạc thầm lăn trên gò má.
Trong khi tiếng địch thổi, âm thầm và buồn bã,
Trên Ô giang như khóc lóc nỗi phân ly,
Càng ngày càng réo rắt, càng lâm ly,
Càng âm u, càng mơ màng, càng thảm thiết.
III
Bên mình Ngu Cơ đứng bao lâu, chàng không biết
Nhưng, đến khi, bàng hoàng, chàng lặng lẽ ngẩng trông,
Thì Hán binh đã đông nghịt bên bờ sông,
Và trời cao, than ôi, vừa quyết trắng.
Mà…!
Mà tiếng địch âm thầm trong bóng đêm văng vẳng
Trên Ô giang, đã bặt hẳn tự bao giờ.
1935
*
“Tiếng Địch Sông Ô” – Bản Hùng Ca Bi Tráng Trong Thi Ca Việt Nam
Trong thi đàn Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX, Huy Thông nổi bật với giọng thơ hùng tráng, sử thi, khác hẳn với những thi sĩ cùng thời vốn thiên về trữ tình hay lãng mạn. Hoài Thanh đã nhận xét: “Chưa bao giờ thi ca Việt Nam có những lời hùng tráng như trong tác phẩm của người thiếu niên hiền lành và xinh trai ấy.” Và thực vậy, bài thơ “Tiếng địch sông Ô” chính là minh chứng rõ ràng nhất cho đặc sắc ấy.
Tái hiện lại trận chiến cuối cùng của Hạng Vũ – vị anh hùng lỗi lạc nhưng bạc mệnh, bài thơ vang lên như một bản anh hùng ca bi tráng. Nếu như những vần thơ lãng mạn thường mềm mại như dòng suối chảy, thì ở đây, lời thơ của Huy Thông lại mạnh mẽ, kiêu hùng, đầy khí thế như những lưỡi kiếm sáng ngời trên chiến địa.
Hào khí bi tráng trong bước đường cùng của Sở Bá Vương
Ngay từ những dòng đầu tiên, bài thơ đã khắc họa hình ảnh Hạng Vũ – con người từng làm rung chuyển thiên hạ – nhưng nay đang đứng trước vòng vây khép chặt của quân Hán. Bầu không khí chiến trận mịt mù, bao trùm bởi khói lửa, cờ bay, tiếng ngựa hí và tiếng quân reo hò. Nhưng giữa khung cảnh dữ dội ấy, Hạng Vũ vẫn đứng sừng sững trên lưng ngựa, đôi mắt u buồn nhưng không hề run sợ.
Câu thơ miêu tả Vương như một pho tượng đồng, đầy sự cương nghị nhưng cũng mang nét cô độc. Cái tư thế ấy không chỉ là biểu tượng của một chiến tướng bất khuất, mà còn ẩn chứa một bi kịch của người anh hùng khi thời thế đổi thay.
Điều đặc biệt trong bút pháp của Huy Thông là ở chỗ, dù viết về thất bại, nhưng ông không khắc họa một Hạng Vũ yếu mềm, mà vẫn làm nổi bật phẩm chất hào hùng của vị tướng ấy. Chính trong bước đường cùng, sự bi tráng của Hạng Vũ mới càng hiện lên rõ nét hơn bao giờ hết.
Tình yêu và lý tưởng – Cuộc đấu tranh giữa cảm xúc và chí khí
Nếu chỉ viết về chiến trận, bài thơ đã đủ hào hùng. Nhưng điều khiến “Tiếng địch sông Ô” trở nên lay động lòng người chính là sự xuất hiện của Ngu Cơ – người phụ nữ của Hạng Vũ. Giữa màn đêm trĩu nặng, giữa khúc địch thê lương vẳng ra từ sông Ô, Ngu Cơ hiện lên mơ màng, buồn bã nhưng kiên cường.
Cả hai đều hiểu rằng định mệnh đã an bài, rằng vòng vây ngày một siết chặt. Nhưng nếu như Ngu Cơ sẵn sàng hy sinh để người mình yêu có thể tiếp tục con đường bá nghiệp, thì Hạng Vũ lại giằng xé giữa tình yêu và chí lớn.
Cảnh tượng này không chỉ khắc họa một bi kịch cá nhân, mà còn vẽ nên bi kịch của một bậc anh hùng khi đứng giữa tình riêng và đại sự. Hạng Vũ đã quyết định cùng Ngu Cơ vượt vòng vây, nhưng chính lúc đó, Ngu Cơ lại chọn tự kết liễu để giải thoát cho chàng.
Đoạn thơ miêu tả cái chết của Ngu Cơ có thể xem là một trong những khoảnh khắc bi tráng và xúc động nhất trong thi ca Việt Nam. Nàng ra đi không một lời oán trách, chỉ để lại niềm tôn kính tuyệt đối dành cho người mình yêu. Hình ảnh người phụ nữ nhỏ bé nhưng mang trong mình dũng khí phi thường đã làm sáng bừng lên một vẻ đẹp hùng tráng nhưng cũng rất đỗi đau thương.
Tiếng địch sông Ô – Khúc ca của sự vĩnh hằng
Trong suốt bài thơ, tiếng địch vang lên như một nhân vật ẩn hiện, lúc bâng khuâng, khi não nề, lúc như hờn trách, khi như tiễn biệt. Nếu như đầu bài thơ, nó chỉ là âm thanh vọng lại từ xa, thì đến cuối cùng, nó trở thành biểu tượng của số phận, của một kỷ nguyên tàn lụi.
Và rồi, khi mọi thứ dần chìm vào bóng tối, khi Ngu Cơ đã ra đi, khi Hạng Vũ đã tuyệt vọng trước vòng vây, tiếng địch cũng ngừng bặt. Đó là lúc mọi thứ khép lại, là khi số phận người anh hùng đã định đoạt.
Lời kết
“Tiếng địch sông Ô” không chỉ là một bài thơ bi tráng về sự thất bại của một bậc anh hùng, mà còn là bản hùng ca về khí phách của những con người không khuất phục trước số phận. Huy Thông, bằng giọng thơ mạnh mẽ, câu chữ đanh thép và hình ảnh đầy ám ảnh, đã tạo nên một tác phẩm độc nhất vô nhị trong lịch sử thi ca Việt Nam.
Lời nhận xét của Hoài Thanh không hề quá lời: chưa bao giờ trong thơ Việt có những vần thơ hùng tráng đến thế. Và cho đến ngày hôm nay, “Tiếng địch sông Ô” vẫn còn đó, vang vọng như một khúc nhạc bi hùng trong lòng những người yêu thơ.
*
Phạm Huy Thông (1916–1988) – Nhà thơ, nhà giáo, nhà khoa học xã hội Việt Nam
Phạm Huy Thông sinh ngày 22 tháng 11 năm 1916 tại Hà Nội, trong một gia đình kinh doanh lớn, giàu tinh thần dân tộc. Ông là hậu duệ của danh tướng Phạm Ngũ Lão, quê gốc ở Hưng Yên.
Ngay từ nhỏ, Phạm Huy Thông đã bộc lộ tài năng xuất sắc. Ông nổi tiếng trong phong trào Thơ Mới với bài Tiếng địch sông Ô khi mới 16 tuổi. Năm 21 tuổi, ông tốt nghiệp cử nhân Luật tại Viện Đại học Đông Dương, sau đó sang Pháp tiếp tục học tập và trở thành Tiến sĩ Luật, Thạc sĩ Sử – Địa khi mới 26 tuổi. Ông từng là Giáo sư, Ủy viên Hội đồng Giáo dục tối cao của Pháp và có thời gian giúp việc Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hội nghị Fontainebleau năm 1946.
Sau khi trở về Việt Nam, ông giữ nhiều trọng trách như Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (1956–1966), Viện trưởng Viện Khảo cổ học (1967–1988), Đại biểu Quốc hội khóa II, III. Ông có nhiều đóng góp trong nghiên cứu lịch sử, khảo cổ học với các công trình tiêu biểu như Thời đại các Vua Hùng dựng nước, Khảo cổ học 10 thế kỷ sau Công nguyên, Khảo cổ học với văn minh thời Trần.
Bên cạnh sự nghiệp khoa học, ông còn là nhà thơ, có thơ được nhắc đến trong Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh – Hoài Chân. Năm 2000, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh. Tên ông được đặt cho nhiều con đường tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh.
Ông qua đời ngày 21 tháng 6 năm 1988 tại Hà Nội.
Viên Ngọc Quý.