Cảm nhận bài thơ: Đất ngoại ô – Nguyễn Khoa Điềm

Đất ngoại ô

 

Khu phố ngoại ô
Tấm tã rụng bên dòng sông
Những người dân nghèo về đây
Như vỏ hến chiều chiều tấp lên các bến.
Khu phố ngoại ô
Chân đất, đội áo nối vai
Le te chợ Hôm, chợ Mai
Đầu tắt mặt tối.

Khu phố ngoại ô nằm nghe mưa nguồn và chớp bể
Đêm thầm tính những chuyến đò về trong giấc ngủ
Trăn trở trôi đi những năm nào
Vỗ về một ngày lam lũ
Trong tiếng nấc dài cuối ngã ba sâu.

Tôi lớn lên trên khu phố buồn đau
Không còn gặp cụ Trâu và những lâu đài cũng chìm dần trong lá xanh
trùm kín cửa,
Vườn thơ xưa không còn gã áo trắng đi về
Ngơ ngẩn đọc thơ buồn trong tiếng guốc cạo râu
Chỉ còn người phu xe cũ
Nghiêng cốc rượu chiều nhoè những mái tôn
Chỉ có nắng rát mặt những quán nghèo bám bờ đường nhựa
Chỉ còn mẹ tôi ngồi bán hàng suốt mùa mưa
Nước mắt thương chồng lạnh như giọt nước đọng qua cửa thùng gương
Ôi những cuộc đời sụt lở dần theo con nước mỗi năm lùa vô Đập Đá
Chỉ có tiếng xe đoàn lê dương lăn lạo xạo trên những đốt lưng trần
Chỉ có tiếng còi tàu há mồm rúc vào mạch máu
Trước Phu Văn Lâu lá cờ vàng như tàu cải úa
Trước bến Văn Lâu…
Đau biết mấy lần mẹ hát khúc ca dao…

Lũ chúng tôi lớn lên
Con gái đi học về còn biết ra sông gánh nước
Con trai còn biết đọc Lục Vân Tiên và thơ Mụ Đội cho bà
Qua hoàng thành, cha ông gọi tên tôi ù ù trong họng súng thần công
Hịch Cần Vương tưởng còn vang qua chín cửa
Sắc nghìn xưa thấm từng trang sử
Đời bà con nghèo đọng giữa đáy truyền đơn
Nước mặn lên lúa héo ở bên cồn
Mẹ vẫn dặn nói “đổi nước ngọt” chứ đừng “bán nước”
Nắng tháng năm run rẩy những oan hồn
Người còn sống nhớ ngày thất thủ
Ôi mùa phượng của lòng tôi cháy đỏ
Chúng tôi đi từ cửa ngoại ô này…

Mười lăm năm đâu phải một ngày xa
Người bạn cũ đã thành đồng chí
Đêm đêm khơi từng ngọn lửa
Kể tôi nghe chuyện mụ lý, ông cò
Những tấm lòng bền bỉ
Cứng như hòn đất chai
Mong đợi một ngày Giải phóng.


Có bao giờ như buổi sáng Xuân nay
Chúng ta bay, nghìn độ lửa, ta bay
Đất đuổi giặc, đất vươn dài bén gót
Mang Cá tan hoang, Phú Bài vỡ mặt
Ngoại ô mở rồi trăm lối ta băng băng
Trái tim hồng lắp đầu súng chống tăng
Ta đã lớn, ơi em, đồng chí
Dưới mái xưa nhìn theo ta ứa lệ
Sức trăm năm nay chuyển xuống lòng đường
Cả ngoại ô làm chiến luỹ sông Hương
Bắn tàu giặc như lá vàng héo rụng
Em gái cứu thương, em trai cầm súng
Mẹ may cờ, em nhỏ đón văn công
Cửa Uỷ ban rực rỡ cờ hồng…

Cảm ơn mẹ sinh con trên thành phố ngàn ngày
Nắng và mưa, mười lăm năm bỡ ngỡ
Nay con lại chào người dưới một vùng đạn lửa
Người đẹp vô cùng với khẩu súng trong tay

Dưới mái nhà xưa
Người chiến sĩ đánh Tây
Mười lăm năm lại có mặt trên bàn thờ
Bạn con đến thắp nén hương thơm ngát
Mắt cha vui phấp phới bóng trăm cờ…

Ngoại ô bừng bừng tiếng hát
Ngực căng phồng trấn giữ Thuận An.


(4-1968 – 4-1969)

*

Ngoại ô – Nơi bắt đầu của những khát vọng

Bài thơ Đất ngoại ô của Nguyễn Khoa Điềm không chỉ là một khúc tự sự về một miền quê nghèo ven đô mà còn là một chứng tích lịch sử, nơi những số phận con người hòa vào dòng chảy của dân tộc. Từng câu chữ thấm đẫm nỗi nhọc nhằn, sự quật cường và cả niềm tự hào mãnh liệt của những người con lớn lên từ mảnh đất ấy.

Ngoại ô – nơi của những kiếp người lam lũ

Khu phố ngoại ô trong thơ Nguyễn Khoa Điềm hiện lên với những hình ảnh chân thực đến xót xa. Đó là nơi những người nghèo từ khắp nơi đổ về, “như vỏ hến chiều chiều tấp lên các bến”. Họ là những con người chân đất, đầu tắt mặt tối, ngày ngày mưu sinh nơi chợ Hôm, chợ Mai. Ngoại ô không ồn ào xa hoa như phố thị, mà chỉ có những mái nhà tạm bợ, những giấc ngủ nặng trĩu lo toan, những tiếng thở dài của những cuộc đời lầm lũi trôi theo từng con nước.

Hình ảnh mẹ ngồi bán hàng suốt mùa mưa, nước mắt thương chồng rơi lạnh như giọt nước đọng qua cửa thùng gương, gợi lên nỗi buồn âm ỉ, dai dẳng. Đời sống của những con người nơi đây chông chênh như chính mảnh đất họ bám víu: “Ôi những cuộc đời sụt lở dần theo con nước mỗi năm lùa vô Đập Đá”.

Ngoại ô – nơi lưu giữ ký ức và khát vọng

Nhưng ngoại ô không chỉ có nỗi nghèo, mà còn là nơi nuôi lớn tâm hồn, nơi khắc sâu vào ký ức những bài học đầu đời. Trong ký ức của tác giả, những đứa trẻ nơi đây không chỉ biết lam lũ mà vẫn còn giữ được hồn quê: “Con gái đi học về còn biết ra sông gánh nước / Con trai còn biết đọc Lục Vân Tiên và thơ Mụ Đội cho bà”.

Ngoại ô cũng là nơi vang vọng những tiếng gọi từ lịch sử. Cha ông như vẫn còn đó, vẫn vang lên lời nhắc nhở giữa những thành quách rêu phong: “Qua hoàng thành, cha ông gọi tên tôi ù ù trong họng súng thần công”.

Dù đời sống có khổ cực, dù cuộc mưu sinh đầy rẫy những lo toan, thì người ngoại ô vẫn không quên lịch sử, vẫn giữ vững niềm tự tôn dân tộc. Câu dặn dò của mẹ: “Mẹ vẫn dặn nói ‘đổi nước ngọt’ chứ đừng ‘bán nước’” là một lời nhắc nhở thấm thía về lòng yêu nước và phẩm giá con người.

Ngoại ô – nơi bùng lên ngọn lửa đấu tranh

Và rồi, khi đất nước kêu gọi, những con người ngoại ô ấy đã đứng dậy, biến khu phố nghèo thành chiến lũy. Không còn là những bóng dáng lầm lũi mưu sinh, họ trở thành những người chiến sĩ kiên cường:

“Có bao giờ như buổi sáng Xuân nay
Chúng ta bay, nghìn độ lửa, ta bay
Đất đuổi giặc, đất vươn dài bén gót”

Họ – những con người từng bị cuộc đời vùi dập – giờ đây đứng lên với “trái tim hồng lắp đầu súng chống tăng”. Họ đã lớn, đã trưởng thành trong khói lửa chiến tranh, và giờ đây trở về để bảo vệ chính mảnh đất nghèo khó nhưng kiên trung ấy.

Mẹ không còn chỉ là người phụ nữ tần tảo nơi quán chợ, mà trở thành người may cờ kháng chiến. Đứa trẻ nghèo ngày nào giờ cầm súng, cầm băng cứu thương. Ngoại ô từ một khu phố lầm than, nay bừng lên thành một trận địa kiêu hùng, nơi “cả ngoại ô làm chiến lũy sông Hương”, bắn những chiếc tàu giặc như lá vàng rụng xuống.

Lời kết – Ngoại ô, nơi khởi nguồn của sức mạnh dân tộc

Bài thơ Đất ngoại ô là một bản hùng ca về những con người nhỏ bé nhưng mang trong mình sức sống phi thường. Từ những nỗi cơ cực của đời sống, họ đã lớn lên với những khát vọng lớn lao, để rồi khi đất nước cần, họ sẵn sàng dâng hiến tuổi trẻ và máu xương cho ngày mai.

Ngoại ô – nơi bắt đầu của những cuộc đời lam lũ, nhưng cũng chính là nơi khởi nguồn cho sức mạnh của cả một dân tộc.

*

Nguyễn Khoa Điềm – Nhà thơ và Nhà chính trị Việt Nam

Nguyễn Khoa Điềm (sinh ngày 15/4/1943), tên thật là Nguyễn Hải Dương, là một nhà thơ, nhà chính trị nổi bật của Việt Nam. Ông từng giữ nhiều chức vụ quan trọng như Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng khóa IX, Trưởng ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương, Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thông tin và Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X.

Sinh ra tại Thừa Thiên Huế, Nguyễn Khoa Điềm xuất thân trong một gia đình có truyền thống văn hóa, là con trai của nhà báo Hải Triều. Ông học tập tại miền Bắc và tốt nghiệp Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964. Sau đó, ông vào miền Nam tham gia phong trào học sinh, sinh viên, hoạt động trong Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, vừa chiến đấu vừa sáng tác thơ ca.

Nguyễn Khoa Điềm được biết đến với những tác phẩm mang đậm chất sử thi và tinh thần yêu nước. Tiêu biểu nhất là trường ca Mặt đường khát vọng (1974), tác phẩm thể hiện sâu sắc tinh thần dân tộc và tư tưởng về đất nước, con người Việt Nam. Ngoài ra, ông còn có nhiều tập thơ giá trị như Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Cõi lặng (2007), và được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật.

Sau khi nghỉ hưu, ông sống tại Huế, tiếp tục đóng góp cho văn học nước nhà bằng những tác phẩm giàu ý nghĩa. Nguyễn Khoa Điềm là một trong những gương mặt tiêu biểu của nền thơ ca kháng chiến và văn học Việt Nam hiện đại.

Viên Ngọc Quý.

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *