Người con gái chằm nón bài thơ
Tặng O Thanh
Tôi chưa về con sông quê em
Ngắm em chằm nón buổi đầu tiên
Bàn tay xây lá, tay xuyên chỉ
Mười sáu vành, mười sáu trăng lên
Ôi cả đôi tay rất đẹp lành
Làm nên êm mát những trưa hanh
Bài thơ nho nhỏ in màu nắng
Dọi xuống hồn ai những khoảng xanh…
Nhưng giặc về kia, đạp gẫy vành
Nón in màu máu những dân lành
Em đi… Cùng với bao bè bạn,
Bảo vệ quê nhà với chú, anh
Có những đêm dài em vót chông
Nhớ ngày từng chuốt những vành cong
Trên quê hương đó, giờ tan nát
Mà mạnh đường dao, cháy bỏng lòng!
Có những tháng ròng dưới đất sâu
Thèm từng giọt nắng chuyển trên đầu
Chập chờn bóng giặc qua ô nhỏ
Súng nổ?
– Trang ơi, mi chết sao?
Trang gọi em lên, thù quyết trả!
Nửa đêm xác giặc đổ chất chồng.
Lót lòng chuối chát ăn vài quả
Lại nối đường giây, lại vượt đồng.
Cứ thế giặc chà xát mấy mươi
Hàng cây xém lửa vẫn xanh tươi
Cũng như em vậy, thêm từng trải
Đất bụi bò lên: miệng lại cười…
Chống giặc dồn dân, đuổi giặc càn
Từng đêm Đảng uỷ họp vừa tan
Một mình một súng đi từng ngõ
Mời chú, dì ra tính chuyện làng
O phó bí thư mười bảy tuổi
“Ăn chưa no, lo chưa tới” mẹ ơi
Mà nay hạt gạo trên sàng đó
Tay xếp, tay đan những chuyện đời
Chiếc nón ngày nào che nắng mưa
Quê hương xanh mát… Đến bây giờ
Vẫn đi đón cả ngày giông bão
Dựng dậy phong trào, soi ước mơ
Nhớ buổi mai nào, mẹ đến thăm –
(Từ trong rào ấp giặc giam cầm)
Mẹ thương con gái đầu sương ướt:
“Biết đến bao lâu nón lại chằm?”
Em vẫn cười vui: “Mạ cứ lo
Con đi đánh giặc, rồi con vô
Bao giờ hết giặc, trên khuôn mới
Vành vạnh trăng tròn, xây nón xưa…”
Đầu xuân 1970
*
Người Con Gái Chằm Nón Bài Thơ – Vành Nón Của Niềm Tin Và Ý Chí
Giữa bao cuộc chiến khốc liệt, hình ảnh người con gái Huế chằm nón bài thơ trở nên dịu dàng nhưng cũng đầy kiên cường. Trong Người con gái chằm nón bài thơ, Nguyễn Khoa Điềm đã khắc họa một người con gái vừa duyên dáng, vừa mang trong mình tinh thần chiến đấu bất khuất. Những vành nón tròn trịa không chỉ che nắng, che mưa, mà còn tượng trưng cho ước mơ, cho lòng yêu nước và cho ý chí đấu tranh đến cùng.
Vành nón của tuổi trẻ và những giấc mơ hiền hòa
Khởi đầu bài thơ là một hình ảnh bình dị mà đẹp đẽ:
“Tôi chưa về con sông quê em
Ngắm em chằm nón buổi đầu tiên
Bàn tay xây lá, tay xuyên chỉ
Mười sáu vành, mười sáu trăng lên”
Người con gái hiện lên với đôi tay khéo léo, cần mẫn đan từng chiếc lá, từng đường kim mũi chỉ. Những vành nón tròn như trăng rằm, sáng trong, tượng trưng cho những giấc mơ thanh bình, giản dị của tuổi trẻ. Ở đó, có sự chăm chỉ, có niềm yêu thương quê hương lặng lẽ, nhưng sâu nặng.
Những chiếc nón không chỉ là vật dụng che mưa che nắng, mà còn là biểu tượng của vẻ đẹp tâm hồn, của sự dịu dàng Huế. Nắng chiếu lên nón, phản chiếu vào tâm hồn người thiếu nữ những “khoảng xanh” – trong trẻo, hồn hậu, đầy hy vọng.
Khi chiến tranh cướp đi sự bình yên
Nhưng rồi chiến tranh ập đến, giặc tràn qua, những chiếc nón thanh bình nay nhuốm màu máu của dân lành:
“Nhưng giặc về kia, đạp gãy vành
Nón in màu máu những dân lành”
Những vành nón từng che mát giấc mơ của người con gái giờ bị chà đạp. Những bàn tay từng khéo léo đan lá, giờ siết chặt súng, cầm dao, chiến đấu vì quê hương:
“Có những đêm dài em vót chông
Nhớ ngày từng chuốt những vành cong”
Sự đối lập giữa hình ảnh “vót chông” và “chuốt vành cong” gợi lên một sự chuyển mình mạnh mẽ. Từ một thiếu nữ hiền lành, cô gái đã trở thành một chiến sĩ kiên trung. Bàn tay từng nâng niu từng sợi lá cọ giờ lại cầm vũ khí, sẵn sàng đối đầu với kẻ thù.
Từ chiến sĩ đến người lãnh đạo phong trào
Không chỉ chiến đấu, người con gái trong bài thơ còn trở thành người lãnh đạo phong trào cách mạng, giữ vững tinh thần và niềm tin của nhân dân:
“Chống giặc dồn dân, đuổi giặc càn
Từng đêm Đảng ủy họp vừa tan
Một mình một súng đi từng ngõ
Mời chú, dì ra tính chuyện làng”
Tuổi mười bảy non nớt nhưng đã gánh trên vai trách nhiệm lớn lao. Câu thơ “Ăn chưa no, lo chưa tới” mẹ ơi khiến người đọc xót xa. Cô gái vẫn còn ở cái tuổi được mẹ chở che, nhưng chiến tranh đã đẩy cô vào vị trí của một người trưởng thành, một người lãnh đạo với trách nhiệm nặng nề.
Vành nón – Biểu tượng của lòng kiên trung
Hình ảnh vành nón trở lại ở cuối bài thơ với một ý nghĩa sâu sắc hơn:
“Biết đến bao lâu nón lại chằm?”
Đó không chỉ là nỗi lo của người mẹ cho con gái, mà còn là khát khao của cả một quê hương – bao giờ cuộc chiến này kết thúc, bao giờ cuộc sống yên bình trở lại? Nhưng trước câu hỏi ấy, cô gái vẫn cười, vẫn kiên định với niềm tin:
“Con đi đánh giặc, rồi con vô
Bao giờ hết giặc, trên khuôn mới
Vành vạnh trăng tròn, xây nón xưa…”
Câu trả lời ấy vừa giản dị, vừa kiên cường. Ngày hòa bình sẽ đến, và khi ấy, vành nón lại được chằm như xưa, tròn đầy như ánh trăng rằm, như giấc mơ thuở ban đầu.
Lời kết
Nguyễn Khoa Điềm đã vẽ nên một hình tượng người con gái Huế vừa dịu dàng, vừa mạnh mẽ, vừa đẹp như trăng, vừa kiên cường như thép. Cô không chỉ chằm nón mà còn chằm cả những ước mơ, những khát vọng và niềm tin vào ngày đất nước thanh bình.
Bài thơ không chỉ ca ngợi người con gái trong chiến tranh, mà còn là một biểu tượng cho sức mạnh của tuổi trẻ, của những con người dám hy sinh, dám chiến đấu để bảo vệ quê hương. Và trong cái tròn trịa của vành nón ngày nào, ta thấy được cả một tương lai tươi sáng đang chờ đợi.
*
Nguyễn Khoa Điềm – Nhà thơ và Nhà chính trị Việt Nam
Nguyễn Khoa Điềm (sinh ngày 15/4/1943), tên thật là Nguyễn Hải Dương, là một nhà thơ, nhà chính trị nổi bật của Việt Nam. Ông từng giữ nhiều chức vụ quan trọng như Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng khóa IX, Trưởng ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương, Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thông tin và Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X.
Sinh ra tại Thừa Thiên Huế, Nguyễn Khoa Điềm xuất thân trong một gia đình có truyền thống văn hóa, là con trai của nhà báo Hải Triều. Ông học tập tại miền Bắc và tốt nghiệp Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964. Sau đó, ông vào miền Nam tham gia phong trào học sinh, sinh viên, hoạt động trong Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, vừa chiến đấu vừa sáng tác thơ ca.
Nguyễn Khoa Điềm được biết đến với những tác phẩm mang đậm chất sử thi và tinh thần yêu nước. Tiêu biểu nhất là trường ca Mặt đường khát vọng (1974), tác phẩm thể hiện sâu sắc tinh thần dân tộc và tư tưởng về đất nước, con người Việt Nam. Ngoài ra, ông còn có nhiều tập thơ giá trị như Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Cõi lặng (2007), và được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật.
Sau khi nghỉ hưu, ông sống tại Huế, tiếp tục đóng góp cho văn học nước nhà bằng những tác phẩm giàu ý nghĩa. Nguyễn Khoa Điềm là một trong những gương mặt tiêu biểu của nền thơ ca kháng chiến và văn học Việt Nam hiện đại.
Viên Ngọc Quý.