Căn phòng ta
Buổi sáng dậy vén rèm cửa sổ
Đón nắng thu vàng thếp căn phòng.
Tưới lẵng phong lan lá mượt ánh hồng
Nghe đài nổi âm thanh cuộc sống.
Hôm nay sẽ mấy lần báo động?
Và căn phòng yêu dấu của ta đây.
Có còn không? Cùng dòng với hôm nay?
Ôi cần phòng đã sẵn sàng đội ngũ.
Trong những căn phòng đứng chung đường phố.
Hàng cây xanh ríu rít tiếng chim mừng.
Văng đạn, bom thù, cửa kính rung.
Ta yêu phòng ta như yêu Hà Nội
Như yêu cuộc sống riêng còn chật chội.
Lò sưởi đôi khi làm bếp, nấu ăn thêm
Sách xếp ngăn tường, trạn cất ga men.
Mấy thước lụa xưa, dành che giường ngủ.
Bàn viết có ảnh con nho nhỏ
Cười trong trai ngọc Cô Tô
Mảnh ngói Loa Thành, chặn những trang thơ.
Con ốc Sầm Sơn còn vang sóng bể
Bát cắm hoa xanh men triều đại Lý.
Mấy chiếc ghế Lạng Sơn mang bóng tre ngàn.
Ta chắt chiu kỷ niệm mười năm.
Căn phòng ta thênh thang hai cửa sổ
Mây trắng thường qua, sông Hồng thả gió.
Mỗi tối mùa hè, tắt điện đêm trăng khuya.
Thêm nỗi nhớ về bãi biển trong kia
Căn phòng ta bốn bức tường ôm ấp
Nghe tiếng ta cười, con từ reo hát.
Dẫu mùa đông gió rít đầy đường.
Sum họp vợ chồng, quanh một mâm cơm
Ôi căn phòng ta sáng nay vẫn như mọi sáng
Trời xanh trong hoa mướp leo vàng.
Còn vẳng đâu đây tiếng trẻ đùa vang.
Còn bóng dáng bạn bè đã đi hỏa tuyến
Bỗng tiếng còi lên xao xuyến…
Căn phòng ta khép cuộc đời riêng.
Cửa chớp lặng yên
Những cửa chớp trầm ngâm phẫn nộ.
Dẫu bom dạn thù có rơi ngay đường phố
Ta thấy rõ căn phòng ta
Cũng như căn phòng của tất cả mọi nhà.
Dù có đổ, cũng không bao giờ đổ
Như Hà Nội mùa thu hoa cúc nở
Vẫn in vàng tươi sáng giữa tim ta.
Hà Nội, thu 1967
*
Căn Phòng Nhỏ – Trái Tim Hà Nội Trong Những Ngày Bom Đạn
Hà Nội trong những năm tháng chiến tranh không chỉ là những con phố bị bom đạn cày xới, những hàng cây rung lên trong tiếng còi báo động, mà còn là những căn phòng nhỏ – nơi lưu giữ hơi ấm gia đình, những ký ức yêu thương, và cả niềm tin vững bền vào tương lai. Căn phòng ta của nhà thơ Anh Thơ không chỉ là bức chân dung về một không gian sống bình dị, mà còn là biểu tượng của sự kiên cường, của tinh thần bất khuất giữa những ngày tháng bão giông.
Căn Phòng – Một Hà Nội Thu Nhỏ
Ngay từ những câu thơ đầu tiên, căn phòng hiện lên với vẻ đẹp bình yên, nơi ánh nắng thu len lỏi qua khung cửa sổ, nơi những lẵng phong lan được tưới mát mỗi ngày:
“Buổi sáng dậy vén rèm cửa sổ
Đón nắng thu vàng thếp căn phòng.
Tưới lẵng phong lan lá mượt ánh hồng
Nghe đài nổi âm thanh cuộc sống.”
Căn phòng ấy không chỉ là một không gian sống, mà còn là thế giới của những kỷ niệm, của tình yêu và sự gắn bó. Từng món đồ trong phòng đều mang theo dấu ấn thời gian:
“Sách xếp ngăn tường, trạn cất ga men.
Mấy thước lụa xưa, dành che giường ngủ.
Bàn viết có ảnh con nho nhỏ
Cười trong trai ngọc Cô Tô.
Mảnh ngói Loa Thành, chặn những trang thơ.
Con ốc Sầm Sơn còn vang sóng bể.
Bát cắm hoa xanh men triều đại Lý.
Mấy chiếc ghế Lạng Sơn mang bóng tre ngàn.”
Những kỷ vật ấy không chỉ là những đồ vật vô tri, mà còn là chứng nhân cho một Hà Nội vừa cổ kính, vừa tràn đầy sức sống. Chúng là những mảnh ghép của một tâm hồn yêu Hà Nội, yêu từng làn gió sông Hồng, từng đêm trăng hè, từng góc phố còn vang tiếng trẻ thơ đùa vui.
Sự Kiên Cường Giữa Bom Đạn
Thế nhưng, căn phòng ấy không chỉ tồn tại trong những ngày tháng yên bình. Chiến tranh đã tràn về, những cơn mưa bom đã biến những con phố quen thuộc thành bãi hoang tàn, và tiếng còi báo động đã trở thành một phần của cuộc sống thường ngày:
“Hôm nay sẽ mấy lần báo động?
Và căn phòng yêu dấu của ta đây.
Có còn không? Cùng dòng với hôm nay?”
Căn phòng nhỏ ấy, cũng như bao căn phòng khác trên mảnh đất Hà Nội, đang gồng mình chống chọi với chiến tranh. Tiếng còi báo động vang lên, cửa kính rung lên vì bom đạn, nhưng trong lòng những con người ở đó, chưa bao giờ mất đi niềm tin vào ngày mai.
“Dẫu bom đạn thù có rơi ngay đường phố
Ta thấy rõ căn phòng ta
Cũng như căn phòng của tất cả mọi nhà.
Dù có đổ, cũng không bao giờ đổ.”
Căn phòng – cũng như Hà Nội – có thể bị bom đạn tàn phá, nhưng không bao giờ gục ngã. Những bức tường có thể sập xuống, nhưng tinh thần người Hà Nội vẫn đứng vững, như mùa thu năm ấy, khi hoa cúc vẫn nở vàng rực rỡ giữa đạn bom.
Hà Nội – Thành Phố Không Bao Giờ Khuất Phục
Bài thơ khép lại với một hình ảnh đầy xúc động:
“Như Hà Nội mùa thu hoa cúc nở
Vẫn in vàng tươi sáng giữa tim ta.”
Hà Nội không chỉ là một địa danh, mà còn là một biểu tượng. Như những bông cúc vàng rực rỡ trong nắng thu, Hà Nội vẫn tỏa sáng giữa khói lửa chiến tranh. Và mỗi căn phòng nhỏ – dù bình dị, dù chật chội – cũng là một phần của Hà Nội, là nơi lưu giữ những giấc mơ, những ký ức và cả lòng kiêu hãnh.
Lời Kết
Căn phòng ta không chỉ đơn thuần là một bài thơ về một không gian sống, mà còn là một khúc tráng ca về tinh thần kiên cường của người Hà Nội trong những ngày tháng chiến tranh. Căn phòng ấy không chỉ là nơi ở, mà còn là chứng nhân của thời đại, là biểu tượng của lòng yêu nước, của sự kiên định trước mọi thử thách.
Dù bom đạn có tàn phá, dù chiến tranh có bủa vây, căn phòng ấy vẫn đứng vững, như Hà Nội vẫn đứng vững, như những con người nơi đây vẫn không ngừng mơ về một ngày mai rực rỡ.
*
Nhà thơ Anh Thơ – Người vẽ tranh quê bằng thơ
Anh Thơ (1918 – 2005), tên thật là Vương Kiều Ân, là một trong những nữ thi sĩ tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại. Bà nổi tiếng từ năm 17 tuổi với tập thơ Bức tranh quê, đoạt giải khuyến khích của Tự Lực Văn Đoàn, mở ra một hướng đi riêng trong phong trào Thơ mới: thơ về nông thôn, thiên nhiên Bắc Bộ với những hình ảnh bình dị, đầy chất trữ tình.
Sinh ra trong một gia đình Nho học, cuộc sống kín cổng cao tường đã hun đúc trong bà một tâm hồn nhạy cảm, luôn khát khao tự do. Những câu thơ của Anh Thơ không chỉ vẽ nên bức tranh làng quê thanh bình mà còn phản ánh nỗi niềm sâu lắng của người phụ nữ trước những ràng buộc xã hội.
Sau Cách mạng tháng Tám, bà tham gia Việt Minh, giữ nhiều trọng trách trong Hội Phụ nữ, tiếp tục sáng tác thơ ca ngợi người phụ nữ hậu phương, vẻ đẹp cuộc sống mới và tinh thần đấu tranh anh dũng của dân tộc. Bà là một trong những hội viên đầu tiên của Hội Nhà văn Việt Nam, từng giữ vị trí ủy viên Ban chấp hành Hội.
Với những đóng góp lớn cho văn học, Anh Thơ được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật năm 2007. Những vần thơ của bà vẫn mãi ngân vang, gợi lên trong lòng người đọc tình yêu quê hương tha thiết:
“Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời…”
(Chiều xuân)
Viên Ngọc Quý.